Mùa Vu Lan báo hiếu, xá tội vong nhân cũng là dịp để chúng ta phần nào đáp ơn công sinh thành dưỡng dục của các bậc cha mẹ, xin bày tỏ nỗi vui mừng vô biên là tôi có diễm phúc được cài lên áo một đoá hồng tươi thắm, còn có mẹ hiền để phụng dưỡng, chăm sóc, an ủi trong tuổi hạc của người.
Trong tập truyện “ Bông Hồng Cài Áo”của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh có giòng thơ nói lên tình mẫu tử bao la, không bến bờ của Mẹ hiền:
“Mẹ già như chuối Ba Hương, như xôi nếp Một như đường mía Lau”
Nhà thơ Hoàng Long cũng nói về lòng Mẹ:
“Mẹ đã cho con nhiều hạnh phúc
Dạy cho chúng con biết điều hay
Mẹ cũng chăm con từng giấc ngủ
Mỗi lần con về bên Mẹ, mẹ ơi”
Là chị cả trong gia đình có một em trai và ba em gái, mẹ tôi từ rất sớm đã phải phụ giúp bà Ngoại lo lắng cho các em. Ông tôi vất vả chạy kiếm sống, quanh năm xa nhà, có khi sang tận bên Pháp cả chục năm ròng rã. Mẹ tôi vừa làm vừa học, nhờ cố gắng chuyên cần, năm 1942, 19 tuổi đậu bằng Diplome D’Etude Superieure Indochinoise (Thành Chung) và được nhận làm giáo viên tiểu học, sau đó trúng tuyển kỳ thi làm công chức ngành tài chánh cho chính phủ bảo hộ Pháp tại Saigon.
Ba tôi tốt nghiệp thư ký kế toán, phục vụ tại Bộ Tài Chánh cùng thời ấy, Ba Mẹ tôi quen nhau và lập gia đình năm 1946.
Ba tôi cũng là con trai trưởng có 7 em, nhà nghèo, đông con, ông bà Nội đều làm lụng cật lực để nuôi sống gia đình, ông làm thợ may, bà bán gà vịt trong Chợ Bến Thành, Saigon.
Sau khi lập gia đình cha mẹ tôi phải cùng lo cho các em ăn học, các cô chú, cậu dì cộng lại trên 10 người còn ở lứa tuổi vị thành niên. Với đồng lương công chức không đủ sống, cha mẹ tôi phải buôn bán kiếm thêm mới tạm đủ trang trải cho những bữa cơm đạm bạc.
Nhờ sự tiếp tay của bạn hữu, ba tôi mở trường dạy lái xe hơi (auto école) trên đường General Lizé (Phan Thanh Giản) quận 3 Saigon. Mẹ tôi ngoài giờ ở công sở còn dạy luật đi đường và giúp thông ngôn cho các tài xế khi có người Pháp đến học lấy bằng lái.
Vào thập niên 50 khi quân đội Quốc Gia Việt Nam mới thành lập, trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức, Nam Định được hình thành để đào tạo sĩ quan người Việt, trước đó các đơn vị quân đội viễn chinh và quân đội Việt Nam đều do các sĩ quan Pháp chỉ huy.
Đang làm việc cho chính phủ Nam Kỳ, năm 1952 ba tôi phải lên đường nhập ngũ vào khoá 2 sĩ quan trừ bị Thủ Đức, ông được chọn sang phục vụ ngành Hành Chánh Quân Y và đi du học tại trường Quân Y Pháp ở thành phố Lyon. Về nước, ông được bổ nhiệm làm quản lý quân y viện Chi Lăng (về sau, cơ sở này được sử dụng làm trường nữ trung học Trưng Vương). Chi Lăng chuyển lên Gò Vấp, phát triển thành Tổng Y Viện Cộng Hoà do Y Sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh chỉ huy, trước tháng 4 năm 1975.
Năm 1956, ba tôi bị bệnh nan y, được cho qua Pháp điều trị nhưng biết mình không qua khỏi nên ông xin quay về nước và từ trần ngày 5 tháng 6 năm 1957, hưởng dương 35 tuổi để lại vợ và bốn con, lớn nhất là tôi, 10 tuổi, ba em, 2 trai và 1 gái tuổi từ 3 tới 6 . Cha tôi qua đời được quy trách vì công vụ nên toà án hành chánh công nhận anh em chúng tôi là Quốc Gia Nghĩa Tử, được chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa dành cho một số đặc ân và quyền lợi đối với cô nhi, quả phụ tử sĩ.
Cha tôi mất, mẹ tôi xin lại việc làm công chức tại Tổng Nha Ngân Sách và Ngoại Viện, là một người cầu tiến và cũng để hưởng đồng lương khá hơn, mẹ tôi đã tự học và tham gia các kỳ thi tuyển công chức hạng ngạch cao hơn. Sau đó, mẹ tôi được chuyển sang Phủ Tổng Uỷ Dinh Điền, Bộ Nông Nghiệp rồi Bộ Kinh Tế & Tài Chánh. Nhiệm sở cuối cùng của bà là Chủ Sự Phòng Nghiên Cứu, Tu Thư, Trung Tâm Huấn Luyện Hợp Tác Xã thuộc Bộ Cải Cách Nông Thôn, trụ sở tại Gia Định.
Ngoài những kỳ thi thăng bậc, mẹ tôi học thêm tiếng Anh tại Trung Tâm Ngoại Ngữ và trường đại học Văn Khoa Saigon.
Năm 1963, 16 tuổi đời, tôi đã trưởng thành hơn các bạn cùng trang lứa, đã biết thế nào là thiếu cha và cảnh gia đình nghèo khó. Muốn vươn lên trong cuộc đời, tôi sớm biết sự thiết yếu của mảnh bằng nên ngoài việc chăm lo học hành, tôi bắt đầu kiếm việc dạy kèm trẻ em tại tư gia để ít, nhiều phụ giúp với mẹ lo cho các em.
Năm 1966, tôi được tuyển vào làm xướng ngôn viên tin tức, thời sự đài phát thanh Saigon, sau đó được biệt phái qua truyền hình quốc gia. Em trai kế tôi, Đào Hiếu Liêm cũng đi dạy kèm trẻ lúc mới lên 17. Năm 1969, em được học bổng quốc gia du học tại Bruxelles, vương quốc Bỉ. Em gái tôi, Đào Thị Phương Lan tốt nghiệp Quốc Gia Thương Mại, được bổ nhiệm làm việc tại Đoàn Chuyên Viên Thuế Vụ, Bộ Tài Chánh. Em trai út của tôi, Đào Hiếu Đễ được học bổng quốc gia qua Đài Loan học ngành sản xuất đường mía.
Thấy mẹ luôn chịu khó, chịu cực, sống kham khổ, tiện tặn, tiết kiệm từng đồng, không muốn đi thêm bước nữa, quyết thờ chồng, nuôi dạy con cái thành người nên mấy anh em chúng tôi cũng thấu hiểu gương hy sinh đó mà cố gắng vươn lên khỏi chốn “bùn lầy, nước đọng” là nơi tập trung phần lớn giới lao động, những người thấp cổ bé miệng trong xã hội. Khi mẹ buồn, mẹ khóc vì tánh cứng đầu, ương ngạnh của tôi, nhìn nước mắt mẹ lăn trên gò má hóp, tôi tự hứa sẽ không làm bà phiền muộn, khổ tâm, bà luôn căn dặn tôi “giọt nước trước rớt xuống đâu, mấy giọt sau cũng y chỗ đấy” tức là tôi phải làm gương cho ba đứa em. Lắm lúc mẹ tôi với tính nghiêm khắc, cứng rắn đã phải dùng đến đòn roi để răn dạy, uốn nắn tôi nhưng vừa buông roi thì bà oà khóc, âu lo, vì thương con, sợ con hư hỏng, lầm lạc, sai phạm, dễ sa ngã.
Mỗi ngày đến sở mẹ tôi chỉ dùng xe bus, xe lam (Lambretta) còn khi ra vùng ngoại ô như Khánh Hội, Gia Định, Gò Vấp, Hạnh Thông Tây…thì ngồi xe ngựa (chuyện có thật của 55 năm về trước), khi cần đi đâu gần nhà bà ráng đi bộ. Thấy mẹ mặc hoài mấy cái áo dài cũ, bạc màu, khi cầm trong tay 1500 đồng, tháng lương đầu tiên của nghề kèm trẻ, tôi đưa mẹ ra hiệu may một áo dài, công và vải hết có 80 đồng, số lương tháng này vào năm 1963 đối với gia đình tôi là một khoản ngân sách khá dồi dào. Anh em chúng tôi được mẹ mua sắm quần áo, giày dép mới vào dịp Tết Nguyên Đán, đưa đi xem các thắng cảnh quanh Saigon, được xem hát, ăn nhà hàng để không cảm thấy thua sút bạn bè đồng trang lứa, còn mẹ thì không lo nghĩ gì cho riêng bà, cố ăn chay, niệm Phật, đến chùa để tìm sự bằng an, thanh thản cho tâm hồn nơi cửa thiền.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, trong khi tôi bị Việt Cộng nhốt tù, mẹ tôi đạp xe đi dạy trẻ tiếng Pháp, tiếng Anh, tại tư gia để kiếm chút tiền mua quà gởi bưu điện vào các trại giam lao động khổ sai trong Nam và ngoài Bắc tiếp tế cho tôi.
Năm 1979 mẹ tôi được em Liêm bảo lãnh đến định cư ở vương quốc Bỉ, qua chương trình sum họp gia đình do UNHCR(Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc) tài trợ. Vừa đến Bruxelles, mẹ tôi nhận giữ trẻ cho các gia đình Việt Nam, được cho chỗ ăn ở, một thời gian sau, bà được gia đình Roberti thuộc hàng quý tộc nhận làm quản gia cho một phụ nữ Bỉ đơn chiếc, ở một lâu đài tại Liege, cách thủ đô Bruxelles gần 100 km. Làm ra tiền, mẹ tôi gởi về cho các con cháu sinh sống ở Saigon và đứa con trai đầu lòng còn bị nhốt trong ngục tù trên đất Bắc.
Mẹ tôi cũng gởi liên tục những lá thư đến Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế, Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế, Tổng Thống Pháp Francois Mitterand, Quốc vương Baudouin và Hoàng hậu Fabiola của Bỉ, thỉnh cầu can thiệp cho trường hợp của tôi bị giam cầm biệt xứ và đày đi lao động khổ sai, từ tháng 6 năm 1975.
Đến Bruxelles năm 1982, sau 6 năm ngồi tù cộng sản, tôi trông chờ từng ngày để được gặp mẹ nhưng lúc đó bà đang làm việc ở xa mà tôi thì lại không có phương tiện đến với bà. Nhớ khi còn trong ngục tù, anh em bạn biết xem tướng số và tử vi, một lần có nói là dù ra được một xứ sở tự do, tôi chưa có thể gặp lại mẹ ngay mà phải chờ thêm ít nhất là một tháng sau, lời tiên đoán này quả không sai chút nào.
Như được trở về từ cõi chết, thoát ngục tù cộng sản, ra được thế giới bên ngoài, giây phút gặp lại mẹ sau nhiều năm xa cách, tôi tưởng chừng mình đang nằm mơ, nghẹn ngào, rơi lệ cho dù tôi rất lì lợm, không bao giờ khóc dù trong những hoàn cảnh đói rét, khắc nghiệt, nan giải nhất. Mẹ tôi làm lụng vất vả mà cũng không quên dành dụm cho vợ con tôi chút tiền mua quà bánh, riêng tôi thì bà cho một bao quần áo, giày cũ để đi làm thợ nấu bếp trong nhà hàng Tàu.
Khi bày con, dâu, rể, cháu nội, ngoại đoàn tụ đông đủ trên quê hương mới thì mẹ tôi đã gần 70 tuổi, bà xin vào chùa Linh Sơn rồi chùa Hoa Nghiêm, ở Bruxelles tu hành, nương nhờ Cửa Phật. Với vốn liếng tiếng Pháp từ lúc làm cô giáo và công chức thời Pháp thuộc, mẹ tôi giúp thông dịch Phật Pháp cho người bản xứ đến lễ chùa để họ tiện theo dõi. Bà cũng xuất hiện trên truyền hình nước Bỉ để giới thiệu về Đạo Phật và sự nhiệm màu, cứu rỗi trong đời sống của chúng sinh muôn loài.
Anh em chúng tôi đứa nào cũng trên dưới sáu mươi rồi mà với mẹ thì chúng tôi vẫn là thơ dại, ngày đêm bà lo âu, phập phòng, sợ sệt đủ điều, luôn căn dặn, khuyên nhủ từng ly, từng tí, phải làm cái này, tránh điều kia, đừng vấp chuyện nọ. Như một thói quen, mỗi khi hốt hoảng, âu lo hay lúc mừng vui, tôi thường kêu lên “Má Ơi”.
Được nghe tiếng nói ấm áp, ân cần, gần gũi của mẹ, tôi thấy yên tâm, vững chãi hơn, nhất là những lúc thất bại, chán chường cho tình đời “ba chìm, bảy nổi”, ngược xuôi, phiền muộn, ngang trái, bấp bênh.
Năm nay mẹ tôi được 90 tuổi, dáng người mảnh khảnh, nhưng tinh thần sáng suốt, đầy nghị lực, hàng ngày vẫn đọc sách, tụng niệm, may vá, theo dõi thời cuộc. Tôi cầu xin cho má luôn mạnh khoẻ, bình an để con cháu được báo hiếu, phụng dưỡng, đền đáp công ơn, sự hy sinh, nhẫn nại của bà, trọn đời lo lắng cho các con các cháu. Mong má sống lâu 100 tuổi, Má ơi.
Bruxelles, ngày thứ 3, 7 tháng 7 năm 2014
Má đã vừa vĩnh viễn xa cách các con cháu rồi, cầu xin cho Má ngàn thu an giấc nơi cõi Vĩnh Hằng, tiêu diêu Miền Cực Lạc và phò hộ cho con cháu luôn được bình an, may mắn, mạnh giỏi. Vĩnh Biệt Má, Má Yêu ơi.