Lãm Thuý- Đọc Cát Bụi Lăn Trầm của Bùi Công Ánh

Đọc Cát Bụi Lăn Trầm

của Huỳnh Công Ánh                                                                                                                                                                          Lãm Thúy

Tám năm trước, nhân dịp về Texas họp Đại Hội Văn Bút, trong một dạ tiệc, Lãm Thúy được biết Huỳnh Công Ánh.  Anh vừa là nhạc sĩ mà cũng vừa là ca sĩ.  Anh đã để lại trong đầu Lãm Thúy một dấu ấn quan trọng.  Đó là sự ngưỡng mộ một tài năng.

            Vài năm gần đây, gặp lại anh, nghe nói anh làm thơ và có ra mắt thơ ở vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn, vào dịp đó Lãm Thúy không có mặt để tham dự.

            Nhớ những năm đầu mới sang định cư ở Hoa Kỳ, một người bạn gửi tặng quyển nguyệt san Làng Văn, thấy Nguyên Hương lúc ấy là chủ nhiệm, trong mục trả lời thư tín của một đọc giả muốn “thử làm thơ” để đăng trong Làng Văn, có nói rằng “chen vào Làng Văn không phải là chuyện dễ làm”.  Lãm Thúy gửi đi 5 bài thơ, viết thư kèm theo nói “Lãm Thúy cũng biết chen vào Làng Văn không phải là chuyện dễ làm, nhưng Lãm Thúy sẽ cố gắng.  Nếu lần này không được thì sẽ tiếp tục gửi đến chừng nào Làng Văn chịu đăng thì thôi.”  Nguyên Hương trả lời đăng 3 bài và sau đó dịp Xuân, chọn thêm bài thứ tư.

            Phải thú thực là Lãm Thúy nôn nao, mong đợi từng ngày, từng giờ để mau đến ngày được thấy thơ mình góp phần vào trang báo nổi tiếng ấy.

            Đợi hằng tháng trời, mở báo ra chẳng thấy tin gì.  Thất vọng não nề, vậy mà ông xã còn chọc quê: “Thi sĩ ngày nay mọc lên như nấm!”  Nghe Huỳnh Công Ánh làm thơ, ra mắt thơ, câu nói dễ ghét đó lại hiện về.

            Cho đến khi đọc những bài thơ của Huỳnh Công Ánh, Lãm Thúy thật sự ngạc nhiên và xúc động.  Thơ anh bình dị mà sâu sắc, thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ của một chiến sĩ quốc gia, một tấm lòng yêu nước thiết tha, một nỗi quan hoài canh cánh bên lòng vì tổ quốc, vì dân tộc và song song đó, lại là một tâm hồn đa cảm, nhạy bén.

            Thú thực, Lãm Thúy có tính ngưỡng mộ người tài hoa, thấy ai hay, ai giỏi thì phục lắm.  Nhưng Lãm Thúy chỉ thực sự kính trọng nhưng ai có lòng yêu nước , thương nòi.  Đọc thơ Huỳnh Công Ánh, Lãm Thúy vô cùng cảm phục và kính ngưỡng.  Tràn ngập trong những trang thơ là nỗi hoài vọng luôn canh cánh bên lòng:

Ta cùng ta

Khao khát một lối về

Mồ mã ông bà

Mút tận bên kia

Nhang khói lạnh

Tay lưu vong vói.  Khuất

 

Tháng 4 trong lòng mỗi người dân miền Nam yêu nước là một vết thương mãi mãi không lành.  Trong bài thơ “Tháng Tư Nhớ Bạn”, Huỳnh Công Ánh bộc lộ một nỗi đau thương, cay đắng khôn cùng:

 

Mài gươm mãi đến bao giờ nhỉ

Bao giờ chém chết nỗi đau xưa

Nỗi đau còn đó, Ngày Quốc Hận

30  tháng 4 sông núi ngẩn ngơ

 

Sống ở xứ người, có tự do, có cơm no, áo ấm, nhà cao cửa rộng, nhưng thi nhân không cho đó là lạc thú mà bày tỏ nỗi lòng một cách xót xa:

 

            Ta lây lất sống đời vong quốc

            Bạn ngậm ngùi yên đáy mộ sâu

            Cờ Vàng vẫn bay, bay cùng khắp

            Dân tộc mình rồi sẽ về đâu?

 

Lo lắng cho dân tộc, Huỳnh Công Ánh lại hận cho những kẻ trở cờ, đón gió:

 

            Tháng Tư thương tích đầm đìa đó

            Ai vội quên tiếp rượu mời thù

            Nợ nước, thù nhà chưa đền trả

            Nỗi nhục này nhức nhối cả thiên thu

 

Mỗi tháng tư, mỗi lần 30 trong đời lưu vong, tác giả nhớ về cơn quốc biến đau thương, tan nhà, nát cửa, phải sống đời lơ láo tha hương:

 

           

Ước vọng chin trên cành chờ lúc rụng

            Khản cổ kêu Quốc Quốc quá ngậm ngùi

 

Hay là hình ảnh thảm thương của những người thua trận lỡ làng:

 

            Lơ láo nhìn nhau, cười như mếu

            Sông núi, chinh nhân như tiếng thở dài

 

Lời thề với núi sông, lời thề với những chiến hữu đã bỏ mình để bảo vệ cơ đồ vẫn vang vọng trong tâm Huỳnh Công Ánh, một lời thề son sắt chẳng bao giờ phai nhạt:

 

            Cúng bạn không xôi, không hoa quả

            Bằng hứa, nguyền về dựng ngọn cờ

Ví phải kiếp này không thành được

Xin máu xương nằm đó với cõi bờ

 

Thơ Huỳnh Công Ánh, chính vậy, phát xuất từ tâm thành, không gọt dũa, mỹ miều nhưng thâm trầm, sâu sắc, đi vào lòng bằng cửa ngõ của những tấm lòng yêu nước thiết tha.

 

            Yêu nước, thương nòi cũng là yêu lý tưởng tự do.  Chính vì thế, tác giả đã ca ngợi những người vượt biên không kể tử sinh, trong đó có chính tác giả:

 

            Vì tự do lìa quê cha, đất tổ

            Vì tự do, khổ nhục đến tận cùng

           

Vì tự do, không cúi đầu trước bạo lực

            Vì tự do, xác vùi dập biển Đông

                                                                        (Vượt Biên)

 

Nhóm từ “vì tự do” lập lại nhiều lần như một khẳng định chắc chắn của một quyết tâm, mặc kệ cái giá quá đắt phải trả:  sinh mệnh, khổ nhục, xa cách quê hương.

 

            Biển vẫn hững hờ gầm thét

            Người tìm tự do bỏ xác oan khiên

            Ôi tổ quốc! Ôi hồn thiêng những người bất hạnh

Ôi Tự Do! Ôi khát vọng con người

Ôi! Nòi giống từng ngàn năm kiêu hãnh

Sao bây giờ đành bỏ nước ra khơi

 

Hàng loạt những tán thán tự được lập lại thật bi hùng: “Ôi Tổ Quốc!”, “Ôi Tự Do!”, “Ôi nòi giống!” để rồi cuối cùng thảng thốt kêu lên những tiếng xé lòng:

 

            “Tự Do ơi! Mẹ Việt Nam ơi!”

 

Cũng một bài “ Vượt Biên” nhưng khác hơn, khủng khiếp hơn “Vượt Biên 81!” được tác giả miêu tả một cách cụ thể đến đau lòng:

 

Khi đã biết cùm gông và bạo lực

Thì Tự Do có thể đánh đổi máu xương

Người con gái vượt biên

Bị dày vò trong tay hải tặc

Hàng vạn dân lành chìm trên biển.  Chết

Biển vẫn hững hờ gào thét

Người lũ lượt bỏ quê hương, bỏ xác trên biển Đông

 

Những thảm cảnh ấy được vẽ ra đầy thương tâm.  Cái giá của tự do quá đắt, nhưng con người chấp nhận nó, cam lòng tự nguyện, kể cả tự nguyện ô nhục, tự nguyện kết thúc cuộc sống của mình vì hai chữ “tự do”.

 

            Thoát khỏi ngục tù cộng sản bằng cuộc vượt thoát phi thường.  Sinh tồn sau cuộc vượt biển kinh hoàng, Huỳnh Công Ánh được định cư ở Hoa Kỳ.  Đáng lẽ có cuộc sống yên ổn, hài lòng.  Nhưng không, lòng anh vẫn hướng về quê nhà, từng mùa nhớ thương.

 

            Mùa Xuân là mùa tươi thắm, mùa vui vầy.  Nhưng trong Xuân Không ta tìm thấy tâm trạng xót xa, đau buồn của tác giả:

 

            Không ai trói chân nơi đất khách

            Không ai bầm dập, thế mà đau

 

Nỗi nhớ quặn thắt:

 

            Nhớ tổ tiên cúi đầu tạ tội

Nhớ mẹ già thắt ruột, nhói tim

 

Nhớ bà mẹ thân yêu đang trông chờ mỏi mắt:

 

           

Hiu hắt cả đời thân mẹ khổ

Tấm mẵn nuôi con, gồng gánh tảo tần

Lẽ ra hôm sớm về bên mẹ

Về thăm thôi, sao mãi lựa lần

 

            Mẹ ơi! Tết về, năm đã hết

            Lầm than dân nước vẫn ê chề

            Buồn đếm từng mùa Xuân đất khách

            Đếm từng tủi nhục kẻ xa quê

 

Với Huỳnh Công Ánh, mùa Xuân ở đây không phải là mùa Xuân thật, bởi lòng người không vui, chỉ có Xuân thanh bình, Xuân quê hương mới là mùa Xuân thật sự:

 

            :Người chờ mùa Xuân thật

            Ngại ngùng chẳng về đây

 

Hay

 

            Lòng chao theo cánh gió

Bủn rủn lạc về đâu

Mấp máy môi thèm ngỏ

Mình nói mình nghe thôi

                                    (Xuân 13)

 

Làm thơ Xuân đã chán, Huỳnh Công Ánh làm thơ Tết,

 

            Tối 31 Tết đọc trong tâm

            Đếm cả năm qua mấy lỗi lầm

 

Yêu người, yêu đời, yêu tổ quốc

Xót giống nòi dưới nanh vuốt ngoại xâm

                                                            (Tết Tây 13)

 

Hết Tết Tây rồi đến Tết Ta, tâm trạng cũng chẳng khá hơn.   Cũng nỗi cô đơn, niềm hoài vọng làm bạn tháng ngày:

 

            30 Tết một mình

            Sáng Mồng Một quạnh hiu

            Luộc vài ba quả trứng

            Như mọi ngày oatmeal

 

            Quán Việt Nam đóng cửa

            Không bánh Tét, bánh Chưng

            Đành no cùng nỗi nhớ

            Qua vội một mùa Xuân

                                                            (Tết 13)

 

Thơ Huỳnh Công Ánh vậy đó, đơn giản, bình dị mà xuyên thấu hồn người.  Xuân tha hương hẵn là buồn, gần như đó là tâm trạng chung của người Việt xa xứ, nhưng mùa Hạ ấm nồng thì sao?

 

            Nay cũng hạ về thân lữ khách

Nhớ mẹ, nhớ trường, nhớ người xưa

            Nhớ lính nguy nan mà hiển hách

            Còn hơn lầm lũi chiếc thân thừa

                                                            (Hạ Về)

Mùa Hạ mà còn buồn, còn nhớ đến vậy thì mùa Thu chắc chắn phải buồn hơn bởi cảnh Thu tàn tạ, dễ gợi niềm ly biệt, nỗi nhớ nhung.  Quả thực, mùa Thu trong thơ Huỳnh Công Ánh vừa lãng mạn, vừa mơ mộng mà cũng vừa bình thường:

 

            Mùa Thu về, lá vàng rơi

            Mùa Thu ta rụng bên trời lưu vong

            Thương chiếc lá, thấu nỗi lòng

            Lá, người xa cội đều mong quay về

                                                                        (Thu)

 

Câu thơ rớt xuống hồn người đọc như một nốt đàn trầm.  Thật ngậm ngùi!

 

Nói thơ Huỳnh Công Ánh lãng mạn, thì đây:

 

            Lá với lá, reo bên trời

            Ta cùng em vẫn muôn đời bên nhau

            Mùa Thu về, lá lao đao

            Thu về ta cũng xôn xao nhớ nàng

 

Cũng từ tâm thái lãng mạn ấy, với những dòng lục bát mượt mà, đầy cảm xúc, Huỳnh Công Ánh đã bày tỏ một tâm hồn lạc quan, yêu đời dù đời dập vùi, cay đắng đến đâu.  Hãy đọc bài thơ “Thả”:

 

            Thả vào tâm một niềm vui

            Tim dồn dập máu, nụ cười òa ra

            Thả vô tay một cành hoa

            Hương đơm, nhị tỏa, tình xa hóa gần

            Thả yêu thương đến vô ngần

            Chờ mùa lên trái, ân cần xum xuê

            Thả nhân ái, thả tương thân

            Nhập về đếm được bao lần ngẩn ngơ

 

Và cuối bài thơ là một ý tưởng ngộ nghĩnh mà độc đáo lạ lùng:

 

            Thôi đành viết gửi bài thơ

            Không ai thèm đọc, dùng tờ giấy thôi

            Gói bất đồng đem chợ trời

            Mở ra bán lấy đồng lời đau đau

 

Như chúng ta đã thấy, Huỳnh Công Ánh có một tấm lòng yêu nước thiết tha, luôn hướng vọng về quê nhà mà trăn trở, quan hoài.  Cũng chính trong trái tim nồng nàn ấy, những yêu thương dành cho gia đình, cho thân nhân ruột thịt, cho bạn bè cũng không kém phần nồng ấm.  Những dòng thơ bình dị, chân thành mà sâu sắc; giản dị mà đầy xúc cảm, dễ đi vào lòng người: 

 

Những đoạn thơ cho Cô Tư, Cô Tám, Huỳnh Thị Tánh, Huỳnh Công Tường lời lẽ đơn sơ, mộc mạc chủ ý thể hiện tình cảm nhiều hơn là nặng về nghệ thuật.

 

Thơ cho Hoàng Mai thì lời lẽ thật bao dung.  Lãm Thúy nghĩ đó là người vợ đã không còn chung sống của tác giả:

 

            Đục trong cũng đã ngót đời

            Sướng vui, vinh nhục, đầy vơi ta cùng

            Tơ duyên phím lỡ, dây chùng

            Nỗi đau đã thấu mấy tầng cao xanh

 

Bài thơ chứa đựng nỗi đớn đau, chia cắt, cũng phơi bày thảm cảnh của những cuộc hôn nhân tan vỡ:

 

            Không riêng chỉ mỗi có cành

            Mà thân, rễ, lá cũng đành khô lây

            Bao giờ giận người mới khuây

            Cho ta thở một hơi đầy nhẹ tênh

            Đến bao giờ người mới quên

            Bao giờ sai, đúng đôi bên giữ thầm

           

Cuối cùng là một thái độ nhún nhường độ lượng

 

            Mà thôi, cả ấy lỗi lầm

            Để ta nhận đủ cho tâm người hiền

            Cho các con thôi lây phiền

           

Và rõ ràng là tìm cách xoa dịu những đớn đau mà cuộc chia ly đã mang đến:

 

            Có ai thoát bể khổ đời

            Xin người thôi xả đầy vơi giận hờn

 

Riêng đối với con gái Huỳnh Cẩm Đoan, mấy câu thơ ngắn ngủi mà đớn đau vô cùng, thể hiện sắc nét cảnh tù tội, nhà tan, cửa nát:

            Con đã đi vào cõi thiên thu

            Thuở mới lên năm, ba đi tù

            Mẹ ở Saigon lo hai em nhỏ

            Con mất một mình, chẳng thấy mẹ cha đâu

 

Với Huỳnh Tú Đoan thì nhắc nhở nhẹ nhàng:

 

            Xinh bên ngoài cần đẹp bên trong

            Chữ nghĩa nào hơn được tấm lòng

            Vinh quang nhất là thương nòi, nhớ nước

            Dẫu muôn đời con vẫn là Việt Nam

 

Với Huỳnh Hà Đoan thì tác giả nhắc lại thời chinh chiến khó khăn, xa cách:

 

            Con chào đời tháng mươi hai

Ba áo hành quân sờn vai, bạc màu

            Bước đời ta cuộc bể dâu

Về thăm giày trận bết màu chiến chinh

 

Riêng với Huỳnh Anh Sơn, tình cảm càng thắm đượm hơn, vì con, dám đổi cả cuộc đời:

 

            Tháng Ba đảo điên còn nằm trong bụng

            Trên tàu Trường Xuân quay lại vì con

            Tháng Năm chào đời ba đi trình diện

            Cay đắng trong tù từ Bắc chí Nam

 

Tình người cha đậm đà, tha thiết dường ấy mà có lẽ những đứa con chưa thấu hiểu cho cùng.  Nhưng Huỳnh Công Ánh không trách hờn, chỉ cảm thấy hạnh phúc đến nỗi rơi lệ khi con mình gọi về để chúc mừng trong ngày Lễ Cha.  Bài thơ “Những Ngày Lễ Nhớ Con”

 

            Ngày Lễ Cha con gọi thăm, chúc

            Quá vui!  Nước mắt tuôn dòng

            Suốt cả năm con gọi thật ấm lòng

 

            Nắng mùa hè mà lòng già thấm lạnh

            Lạnh phút sum vầy, mơ bữa ăn chung

 

Lãm Thúy không biết khi các con anh đọc những dòng thơ này có thấy lòng xúc động hay không.  Chứ bản thân Lãm Thúy cũng nghẹn ngào, thương cho những bậc cha mẹ ở xứ này, con đi xa lập nghiệp. bận bịu và cũng vô tình, bỏ mặc song thân nhớ thương, chờ đợi.  Cả năm mới gọi về nói vài câu chúc tụng rồi thôi.  Tội nghiệp cho ước mơ nhỏ nhoi chỉ cần ăn một bữa cơm chung, quây quần bên con cháu!

 

Khắc đậm hơn hết trong tâm hồn tác giả là tình cha, tình mẹ

 

            Tình cha như núi

            Tình cha như sông

            Cha là ngọn đuốc

            Là ngọn hải đăng …..

                                                (Tình Cha)

 

Và mẹ, nỗi đau thương tử biệt nghẹn ngào:

 

            Mẹ hiền yêu dấu ơi

            Giòng đời trôi vẫn trôi

            Âm dương xa cách rồi

            Nhớ mẹ quá đi thôi

 

Nhớ mà không thể về.  Hãy nghe thi nhân bày tỏ lý do:

 

            Con lưu vong từ đó

            Ngày đêm muốn quay về

            Không vì đường xa cách trở

            Không vì bận việc áo cơm

            Không vì nhạt nhòa thương nhớ

            Không thể về vì giặc tràn khắp quê hương

 

Ôi! Cái lý do phi lý nhất đã làm cho bao nhiêu đứa con tha phương đành nuốt lệ nghẹn ngào hướng vọng hương linh khi nghe mẹ đã buông xuôi, rời bỏ sự sống sau bao tháng năm dài chờ đợi đứa con xa xứ quay về thăm.  Huỳnh Công Ánh đã nói thay cho bao người hận tủi:

 

            Con đi ngày ấy tóc còn xanh

Lặng lẽ trông theo mắt mẹ đoanh tròng

Đất khách, đầu con giờ đã bạc

Ngày về xa, xa thăm thẳm ước mong

 

Ngày đi tóc xanh, giờ đầu bạc nơi đất khách ngậm ngùi:

 

            Ngày mẹ xuôi tay con không về lần cuối

            Xa nhà, xa mẹ làm sao vui?

 

Một khía cạnh khác trong thơ Huỳnh Công Ánh là nỗi ngao ngán tình đời:

 

            Tôi có lần phóc lên ngựa cầm gươm

            Vì thế lệnh tôi oai ghê lắm

            Em thời ấy ngọc ngà, lụa gấm

            Rồi một ngày thất trận điêu linh

 

            Ta có lần lỡ vận, thất cơ

            Không tránh khỏi bần hàn, cùng khốn

            Em vì thế tưởng rằng ta khờ lắm

            Buông rẻ lời rung rẩy – buồn làm ngơ

 

            Ta có lần mặc áo vá, chân không

            Đi đứng ngại ngần, nói lời mộc mạc

            Em như thế hững hờ nhìn hướng khác

            Ta đành ngơ.  Là thế chuyện nhân gian

 

Không những chấp nhận tình đời bạc bẽo một cách ung dung, Huỳnh Công Ánh nhiều khi còn tự xét lấy mình, tìm những nguyên nhân sâu xa khiến người đời bất bình.  Bài thơ “Tự Hối” là một cách sống cao cả, phi thường, ít người có được.  Thường thì người chỉ thích trách người chứ ít ai chịu trách bản thân:

 

           

Không lẽ bỗng dưng vô cớ

            Ai đó gây sự với mình

            Đôi khi nói, làm không nhớ

            Mới xảy ra chuyện bất bình

 

Quan niệm sống của thi nhân thấu triệt triết lý Phật giáo sâu sắc:

 

            Trần gian vô thường thôi đấy

            Mình chỉ là khách lữ hành

            Ít, nhiều, có, không cũng vậy

            Ngày kia như sương tan nhanh

 

Cái chân lý “Sắc tức thị không – không tức thị sắc” và cuộc đời như sương, như bọt sóng cần hỷ xả được Huỳnh Công Ánh diễn tả đơn giản:

 

            Đi tìm nguồn hạnh phúc thật

            Là xả phiền muộn cõi đời

            Không quan tâm chuyện còn, mất

            Niết bàn trong tâm mình thôi

 

Và:

 

            Thân tâm ơi, thôi rong ruổi

Tháng ngày tự tại, an nhiên

Miệng ta ơi! Thôi ít nói

Tịnh độ may bớt ưu phiền

 

Nói thì nói vậy chứ làm sao bỏ qua được những cảnh trái tai, gai mắt, rồi cũng đành phải lên tiếng:

 

            Huynh đệ chi binh, ai cũng nhớ

            Lương khô, gạo sấy, nước bi-đông

            Sáng duyên hải, chiều Trường Sơn rong ruổi

            Ta không hề lỗi hẹn với non sông

 

            Mà nay viễn xứ sao buồn lạ

Đôi lúc lòng ta cũng ngẩn ngơ

Người cùng chiến tuyến hăng đấu đá

Sao chẳng cùng nhau dưới bóng cờ

                                                (Chuyện Núi Sông)

 

Trải hồn mình qua từng âm điệu, từng hình ảnh, từng ý tình trong tập thơ Cát Bụi Lăn Trầm của Huỳnh Công Ánh, ta phải ghi nhận 3 điều:

 

Thứ nhất, tác giả có lòng yêu nước sâu xa, tha thiết, lúc nào cũng hướng vọng quê nhà bằng tất cả nỗi xót xa trong lòng người viễn xứ

 

Thứ Hai, tác giả có một tâm hồn bao dung, rộng lượng, một tình cảm đậm đà, sắt son dành cho cha mẹ, vợ con, người thân, người yêu, cô dì, chú bác, bạn bè, chiến hữu

 

Cuối cùng, ta cũng tìm thấy một tâm hồn lạc quan, yêu đời, luôn tự tin dù cuộc sống có chà đạp, vùi dập bao lần, dù người thân, người yêu có quay lưng phản bội:

            Hồn chín tới giữa điệp trùng luân lạc

            Thân còn xanh, háo hức đợi đâm chồi

            Dẫu lá úa lựa lần vàng ngơ ngác

            Nhựa nguyên đầy chuyển động nhánh thân phơi

 

Chính bởi bầu nhiệt huyết còn sôi sục, sức sống, sức đấu tranh còn đầy ắp trong hồn, trong thân nên:

 

            Mỗi lần nghiêm ngắm Cờ Vàng bay

            Như thấy hồn thiêng của giống nòi

            Đỏ máu anh hùng ba dòng chảy

            Từ thuở Hùng Vương đến đời đời

 

Tất cả những tâm tình nồng nàn ấy, lòng yêu nước tha thiết ấy, hồn thơ lãng mạn ấy đã được chuyên chở bằng thứ ngôn ngữ bình dị, chân thành nên dễ chạm đến tim người đọc thơ.

 

Cảm ơn thi nhân nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh đã góp cho đời một áng văn chương yêu nước, một niềm hoài vọng khôn nguôi và một lòng tin không suy biến vào vận mệnh huy hoàng của dân tộc Việt Nam mai sau.

 

April 19, 2020