Ba tôi năm nay đã 95 tuổi nhưng da không nhăn mấy, má chưa lõm, lưng không còng, tóc bắt đầu đen lại từ ót lên đến hai mang tai. Đi lui đi tới trong nhà thì Ba phải chống cái gậy ba que có bánh xe. Viết đến đây tôi chợt nhớ là mình đã viết theo bài tả “Ông tôi” trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà các bạn 48-55 chắc cũng còn nhớ: “Ông tôi năm nay đã ngoài sáu mươi tuổi. Đầu râu tóc bạc, da đã nhăn, má đã lõm, lưng đã còng, đi đâu phải chống gậy.” Mới ngày nào còn bé tí teo phải học thuộc lòng bài này và nhìn ngắm ông nội tôi vừa ăn lục tuần thôi mà già lụm cụm giống y hệt “Ông tôi” đầu râu tóc bạc được tả trong bài học vậy. Thế hệ 48-55 chúng ta giờ này ai cũng đã ngoài sáu mươi, có người nhếch nhếch tới gần bảy mươi mà có ai già như “Ông tôi” đâu? Riêng tôi đến Tết con rắn này là được sáu mươi tám cái xuân xanh đấy các bạn ạ nhưng tôi vẫn cảm thấy còn trẻ lắm. Dĩ nhiên là da chưa nhăn, má chưa lõm, lưng thẳng boong, đi đâu thì phóc lên chiếc Camry phóng quá speed limit, thấy cảnh sát thì exit qua lối khác liền. Năm nào đám học trò tôi (tiểu học Mỹ) cũng hỏi tôi có bầu mỗi khi tôi mặc áo hơi chật. Đầu niên học này cũng còn có mấy đứa hỏi câu đó khi chúng thấy cái bụng lùm lùm vì cái áo đầm dài chật mà tiếc của vẫn chưa vất đi.
Từ ngày di tản qua Mỹ ba tôi biết cách giữ gìn sức khỏe (xin đọc cuốn Bí Quyết Giữ Gìn Sức Khỏe của Cụ Hoàng Toại) nên Ba ít khi đau ốm và chúng tôi cũng tưởng Ba sẽ khỏe dài dài, cho đến đêm 30 tết tây cuối năm 2000, Ba té trong buồng tắm và từ đó cứ té hoài, vô ra nhà thương mấy lần. Anh chị chúng tôi phải dọn phòng chơi dưới nhà làm phòng ngủ vì Ba không lên xuống lầu được nữa. Anh tôi đêm đêm ngủ bên cạnh trông chừng. Về sau thì chúng tôi thay phiên nhau trông chừng Ba ban đêm.
Chị dâu chúng tôi là người đàn bà Việt Nam của thời bà Đoàn Thị Điểm, người đàn bà sẵn sàng gánh vác giang sơn nhà chồng. Chị là típ người cân quắc, biết người biết của, không ngại cảnh: “Ngọt bùi thiếp đỡ hiếu nam. Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân”. Anh tôi rất hên và gia đình chúng tôi thật có phước vì bà chị dâu chúng tôi vừa đẹp người vừa đẹp nết, công dung ngôn hạnh, nội trợ đảm đang. Hồi ở Việt Nam có người giúp việc chứ qua đến xứ này thì chủ cũng là mình mà tớ cũng là mình thôi. Chị lo giặt giũ cơm nước — Ba lại ăn kiêng nên chị nấu riêng cho Ba mỗi ngày — mấy chục năm qua mà không hề có một tiếng phàn nàn.
Sau lần té ở phòng tắm Ba yếu thấy rõ và cũng bắt đầu quên, không còn theo thời khoá biểu sinh hoạt mỗi ngày như trước nữa. Chỉ ăn và ngủ, khi thức dậy thì than “Sống lâu mệt quá”. Ngô Thị Vân cũng nhận thấy sự thay đổi, vì mấy năm trước mỗi lần Vân kêu chúc Tết, chúc sinh nhật thì Ba vui lắm, hỏi han huyên thuyên về Ba Má của Vân. Ba Vân học cùng khóa với Ba tôi ở Hà Nội. Năm nay (Tết con rồng) Vân nói khi chị Quả đưa điện thoại cho Ba, Vân không nghe Ba nói gì. Một hồi sau thì chị Quả cầm điện thoại xin lỗi Vân là Ba lãng tai không nghe được điện thoại nữa. Đến tháng March năm 2001 thì Ba yếu lắm, ăn rất ít và hầu như không còn tha thiết gì đến sự việc chung quanh. Chúng tôi bàn nhau tổ chức lễ thượng thọ 95 (April 19) mời hết những người bạn của Ba — bạn nối khoá, bạn vong niên, bạn mà chược, tứ sắc, hay những ai đã quen biết Ba — để Ba thăm và dụ khị Ba phải chịu khó ăn uống, tập thể dục mỗi ngày để có sức mà tiếp khách ngày thượng thọ. Ba vui lắm và đưa cuốn địa chỉ cho tôi dặn phải mời hết những người bạn trong cuốn địa chỉ. Giấy mời in xong và đã gởi đi một ít thì Ba trở bệnh, không chịu ăn uống, chỉ ngủ suốt ngày; yếu đến nỗi không ngồi lâu đủ để ăn xong bữa. Ba nói với chúng tôi là sợ không đủ sức để tiếp khách và biểu đình chỉ việc mời quan khách, chỉ gọi con cháu về đông đủ thôi. Chúng tôi cũng lo lắng vì Ba cứ nhắm mắt không biết ngủ hay hôn mê, có khi sùi bọt mép. Có một tuần Ba đi tiêu ra máu mỗi ngày nhưng sau khi bác sĩ chuyên môn rọi điện cho biết Ba chỉ bị trỉ và hơi nhiểm trùng ruột, uống thuốc thì hết. Cháu đích tôn là bác sĩ Hoàng Phước Quang Huy –cháu Huy chữa bệnh theo phương pháp thiên nhiên và toàn diện (holistic/integrated medicine ), ít dùng thuốc tây — bàn với chúng tôi ngưng hết những thuốc tây, thuốc ta xưa nay Ba vẫn uống mà chỉ uống sâm, linh chi, thuốc trợ gan và thuốc thế thức ăn. Tôi cho Ba uống nước Pi (tiếng Hy Lạp Pi có nghiã là life; Pi Water là Water of Life) vì thấy một bà Mỹ cho bà mẹ 90 tuổi mang tả nằm một chỗ uống nước Pi; sau hai tuần bà cụ mạnh chân tay, đì tiểu đi tiêu một mình được. Mấy tuần sau thì Ba tôi khỏe khỏe lại. Ăn nhiều hơn, đi đứng được nhưng vẫn không nhớ những chuyện mới xảy ra, quên cả tên của vài đứa cháu, chỉ nhớ chuyên xưa thôi.
Cứ cuối tuần tôi đến dụ cho Ba nói chuyện xưa, khơi cho Ba suy nghĩ. Tôi “thách thức” Ba viết thêm một cuốn sách nữa. Lúc đầu thì ông chịu lắm, ừ liền và nói sẽ viết về giai thoại của mấy đứa cháu và chắc vì Ba cứ kể chuyện thằng chắc 4 tuổi láu cá lắm. Ba cho nó tờ một trăm, biểu nó đưa cho mẹ cất; nó không nói gì, lẳng lặng xếp tờ giấy trăm làm bốn rồi đút vào túi quần nó và đi tìm “Uncle Tư” nhờ đưa đi phố mua đồ chơi. Nhưng chỉ hôm sau thì Ba nói như phân trần là Ba không nhớ gì để viết ngoài chuyện thằng chắc. Tôi khơi chuyện những ngày Ba học Dược ở Hà Nội, hỏi đùa xem Ba có bồ không thì thật là ngạc nhiên khi Ba trả lời “có” vì xưa nay chúng tôi có hỏi thì Ba chỉ cười lắc đầu nói những ngày đó Ba chỉ lo học.
Chúng tôi chỉ biết Ba học gạo lắm. Cuối tuần học ôn tất cả bài trong tuần và cuối tuần sau thì học ôn bài của tuần trước nữa và cứ thế đến cuối năm thì Ba được bầu làm “examiner” khảo hạch các bạn xem mọi người có nhớ bài vở đủ để thi cuối năm không. Ba còn nhớ tên mấy ông thầy ruột rất cưng Ba là Dr. Joyeux, Dr. Cesary, và Dr. Collin. Trong một kỳ thi Dr. Cesary cho 18 điểm 3/4 và ngạc nhiên thấy bài Ba viết về ” Theorie de la fermentation” không phải bài mà ông đã dạy trong lớp và hỏi Ba đã học ở đâu. Ba nói Ba đã đọc trong một cuốn sách ở thư viện và thấy hay nên chọn viết về theorie này. Sau khi ăn cơm chiều là Ba đọc sách — trong khi các bạn ra ngoài đi chơi — cho đến giờ ngủ phải tắt đèn. Có một lần đang làm thực tập trong lab thì Ba hô phải chạy ra ngay vì lab sẽ nỗ. Thầy rất tin Ba nên biểu mọi người chạy ra hết và 5 phút sau thì lab nỗ. Ba học giỏi nhứt trường cho nên cuối năm thì được giấy mời đi dự dạ hội khiêu vũ của ông Toàn Quyền Đông Dương nhưng vì Ba không biết nhảy đầm nên đành phải nhường cho người khác đi. Tôi thoáng thấy Ba thở dài nhẹ và hình như tiếc rẻ thuở thiếu thời đã không biết “ăn chơi”. Ba nhớ tên những sinh viên ăn cùng bàn ở nội trú như ông Hồ Đắc Cáo, bác Ngô Khắc Trâm học kiến trúc; ông Tôn Thất Dương học thú y, bác Hoàng Sử, y sĩ v.v…Ba nói bác Trâm (ba của Ngô Thị Vân) kể một chuyện vui là có một cô bế con đến đòi gặp ông Trâm nhưng khi bác Trâm xuất hiện thì té ra không phải; baby con một ông Trâm khác! Ngồi học trong lớp nhìn ra công viên thì thường thấy từng cặp từng cặp hủ hỉ trên ghế đá công viên. Ba nói thêm là các cô hay đến bắt bồ với mấy ông sinh viên. Tôi hỏi sao ba không bị bắt thì Ba nói Ba cứ phải lờ các cô đi vì còn mãi học. Bây giờ Ba công nhận là Ba “dại”, chỉ biết lo học, không hề biết thú vui gì khác. Ba học giỏi như vậy mà không thi ra trường được, không phải vì học tài thi phận mà vì Ba bị bệnh vào năm cuối và đau lên đau xuống trong gần năm, cuối cùng đành bỏ dỡ. Nếu Ba không để tang cụ Phan Bội Châu thì Ba kịp thi ra trường trước khi bị bệnh. Tất cả sinh viên để tang cụ Phan đều bị đuổi một năm. Quả là thi cử có số.
Tôi hỏi về cô T., cô bồ xưa, thì Ba nói cô cũng học Dược trên Ba một lớp nhưng hay làm chung trong lab và thân nhau lắm. Ba nói Ba thương cô và cô cũng thương Ba nhưng Ba không dám tiến tới vì sợ ông nội tôi không chịu người Bắc. Ông xã tôi đùa hỏi sao Ba không mời cô đi ăn phở và chúng tôi thật ngạc nhiên khi Ba nói thường thường ngày chủ nhật chính cô gợi ý là cô có tiền có thể cùng nhau đi ăn phở mà ba cũng không dám đi. Tôi hơi thấy đau lòng vì biết ba không chủ trì được mình nữa nên mới nói ra những chuyện mà xưa nay ba vẫn giữ kín trong lòng. Ba nói thêm là cô T. không đẹp nhưng dễ thương và nếu ông nội tôi không bắt về Huế cưới vợ thì chắc Ba sẽ cưới cổ. Hình như ông nội tôi biết mối tình thầm kín của Ba và sợ ba lấy vợ Bắc nên mới gọi gấp về Huế cưới mẹ tôi là em út của một ông quan đồng liêu. Ông xã tôi lại đùa nói rằng ông là em họ cô T. vì cũng cùng họ Nguyễn, nhưng Ba còn sáng suốt đủ để hạch hỏi lại rằng cô T. người Bắc sao lại có họ được. Anh Liễn mồm năm, miệng mười giải thích rằng ngày xưa tổ tiên anh là người Bắc di dân vào Huế — mà đó cũng là sư thật; tổ tiên anh có họ với chúa Nguyễn đã theo Nguyễn Hoàng di dân vào trung và định cư ở làng La Vân Hạ, huyện Quảng Điền –; vậy là Ba tin liền và từ đó mỗi lần nhắc đến cô T. Ba lại nói thêm, “té ra cô T. có họ với Liễn” và ngày nào Ba cũng nhắc đến cô T. Tôi hỏi về sau cổ có lập gia đình không thì Ba có vẻ buồn, thở dài nói cô chết trẻ chưa lập gia đình.
Tôi lại khơi thêm hỏi ngoài cô T. ra Ba có quen với cô nào nữa không thì Ba nhắc lại những ngày ở nội trú trường Quốc học, cô Tham tôi (là bà Bùi Xuân Dục, sau này là tổng giám thị trường Đồng Khánh) thì ở nội trú trường Đồng Khánh. Cứ đến cuối tuần ông nội cho xe nhà đến rước hai chị em về. Cô tôi có người bạn thân là “Chị Diệp” hay theo xe về nhà chơi. Mỗi lần có cô Diệp đi cùng là Ba phải ngồi “hạng nhì” nhường chỗ cho cô Diệp. Ba còn nhớ cô Diệp là con ông đốc Thọ. Ba nói thêm về sau khi cô Tham dạy ở Thanh Hoá, Ba có quen và thương một người học trò của cô nhưng cũng chỉ là mối tình câm thôi. Cô Th. cũng học Dược nhưng về sau Ba bị bệnh phải bỏ học về Huế nên mối tình mới chớm đành câm luôn. Ba cũng nhắc nhở một cô học trò nữa của Cô Tham là cô Rôm, người Tàu lai mà Ba còn nhớ cô Rôm chết vì tai nạn xe lửa từ Thanh Hoá về Huế.
Khi nói đến trường Quốc Học Ba nhớ chú tôi — em út của Ba — trước kia học ở Vinh sau đổi về Quốc học và chú đã chê thầy ở Quốc Học không giỏi. Ông hiệu trưởng mời ông nội tôi lên mắng vốn nói rằng tội chê thầy là đáng bị đuổi nhưng vì chú học giỏi quá nên không nỡ đuổi; thật là thời đại phong kiến. Thầy Nguyễn Văn Hai của chúng ta là bạn học với chú. Thầy Hai cũng nổi tiếng học giỏi nhưng thầy nói với tôi là thầy chỉ học gạo chứ chú tôi mới thật là thần đồng về toán.
Ba tôi nhớ các cô các chú hồi còn trẻ — Ba là con thứ hai nhưng là trai trưởng — đã học những gì, làm gì, có những sở trường, sở đoản gì v.v… rồi lan man nhớ đến chị Yến Chi đã mất hồi 1961. Ba cười nói chị Tươi Chị (còn tôi là Tươi Em do bà ngoại đặt) ngẳng lắm, hồi nhỏ đem dầu nhị thiên đường xức mũi miệng mấy đứa em con cậu tôi — gia đình cậu ở chung nhà — mà cậu chỉ cười nên tụi nó chạy đi tìm Ba mách: “Dượng ơi, dượng ơi, chị Tươi Chị xức dầu Nhị Thiên vào mũi cay quá, cay quá.” Tôi cũng còn nhớ chị nghịch ngợm cho con của chị người làm mới 6 tuổi uống bia có đường. Con nhỏ say đi loạng choạng bổ lên bổ xuống!
Ba học giỏi từ hồi còn nhỏ. Kỳ thi tuyển vào Đệ Nhất niên (tức Đệ Thất bây giờ) ở trường Quốc học, Ba là một trong 50 người được chấm đậu trong số 300 thí sinh. Ba là người ít tuổi nhất và cũng nhỏ con nhất nên bạn bè gọi là “Toại Microbe”. Năm 16 tuổi, chắc là Đệ Tứ, ông thầy người Pháp gọi đọc bài. Không những thuộc bài mà Ba còn trả lời trơn tru mọi câu hỏi. Thầy khen lắm và vì thấy Ba nhỏ người nên hỏi Ba mấy tuổi. Ba chưa kịp trả lời thì cả lớp đông thanh nói: “Hắn 8 tuổi!”
Tôi đang muốn viết về Hàn Mặc Tử vì thấy nhiều sách vở báo chí nói đến giai thoại về cô tôi và Hàn Mặc Tử sai nhiều quá. Ngay cả bài “Thôn Vỹ Dạ” mà cũng bị đổi nhiều chữ. Em họ tôi mà cũng là con nuôi cô tức Hoàng Thị Bích Tâm ức lắm. Em gởi hết những tài liệu về thi sĩ mà cô tôi cất giữ và năn nỉ tôi viết bài đính chính. Cách đây 16 năm anh Liễn về Maryland chơi có đem theo một cuốn Văn Nghệ Tiền Phong thì phải, có bài viết về cô mà viết bậy bạ không thể tả. Tôi gởi về Huế cho cô coi. Sau đó thì cô gởi bài “Thôn Vỹ Dạ” bút tích của Hàn Mặc Tử kèm theo một lá thơ của Hàn Mặc Tử sang cho tôi để: “em biết sự thật và tuỳ em muốn viết bài đính chính thì tùy tiện còn O không muốn hệ lụy đến chuyện thế gian nữa.” Tôi vừa lười vừa nhát gan nên cũng im luôn. Nhưng thế nào tôi cũng viết nên năm ngoái về Huế, em tôi cho ba cuốn sách về Hàn Mặc Tử để làm tài liệu. Tôi vẫn đem sách theo để đọc mỗi khi đến ở lại với Ba cuối tuần. Tôi dụ Ba đọc cuốn có nhắc tên Ba là bào huynh của cô Hoàng Cúc và sau hai tuần thì Ba nói Ba tìm thấy tên Ba rôì và nói thêm, “Hàn Mặc Tử ngày xưa làm việc ở Sở Đạc Điền với ông nội ở Qui Nhơn, quen O Cúc lắm, muốn cưới O nhưng O từ chối nói hai người khác đạo, không hoà hợp được.” Và từ đó cứ thấy mặt tôi là Ba lại nhắc câu: “Hàn Mặc Tử ngày xưa làm việc ở Sở Đạc Điền…” Đến giờ này Ba cũng còn nhắc nhở chuyện Hàn Mặc Tử làm việc dưới quyền ông nội ở Qui Nhơn.
Cuối năm 2000, tự nhiên Ba hỏi lúc nào thì in được cuốn sách về sức khỏe của Ba bằng tiếng Anh — Cuốn tiếng Anh cũng xong từ lâu nhưng chúng tôi không định in vì không quen biết nhà xuất bản Mỹ nào –. Sau khi thấy Ba tha thiết muốn in thì tôi bàn với một bà bạn Mỹ. Bà này là professional editor đã giúp edit bản tiếng Anh. Bà giúp tôi liên lạc với nhà xuất bản Vantage Press ở New York. Và bản tiếng Anh tựa đề “HEALTH TIPS FROM A NINETY-YEAR-YOUNG MAN: Good Health and Nutrition — A Natural Approach, by Toai Hoang ” sẽ ra mắt độc giả vào cuối năm 2001.
Tôi cám ơn các anh chị chủ trương 48-55, nhất là bạn Ngô thị Vân, đã giúp chúng tôi trở thành văn, thi sĩ hết!. Viết hay hay không hay không thành vấn đề. Cái hay là chúng ta có một diễn đàn riêng để tình tự, để kể lể, để trải lòng với nhau, để tập làm văn sĩ và có người đã được khen là viết hay hơn văn sĩ thứ thiệt như bạn Dạ Khê với bài “Anh Ô Kia” mà mỗi lần buồn buồn là tôi lại đem ra đọc và chợt bắt gặp mình vừa cười vừa khóc thút thít. Bạn Mộng Hà viết thật dễ thương mà ngày xưa hình như cũng không giỏi môn Việt văn mấy, phải không Mộng Hà hay tui nhớ sai? Nếu mà tui nhớ sai thì xin lỗi nghe.