Mẹ thương – Tiểu Thu
Sáng thứ bảy, ngồi nhâm nhi ly cà phê một mình trong bếp, chợt nhìn lên tấm lịch Tam tông Miếu trên tường, Mai không khỏi buông tiếng thở dài. Chỉ còn một tuần nữa là đám giỗ mẹ. Cái đám giỗ thứ năm. Nhớ mẹ. Nhớ da diết. Mái tóc trắng như bông. Những năm cuối đời, bệnh hoạn liên miên, từ một người tướng mạo phương phi, mẹ trở nên gầy gò, khô héo, bước đi xiêu vẹo! Thân xác có thay đổi, nhưng tấm lòng từ bi, thương con, thương cháu, thương tha nhân… vẫn không suy giảm. Mẹ lúc nào cũng vậy. Trái tim rộng như biển cả, như bầu trời. Hồi trước, nhận những cánh thư từ các trại tị nạn, của những người quen thân, quen sơ, hay chưa hề quen (có thể là người quen của một người quen nào đó!) cầu cứu, mẹ đều hối hả gởi tiền bạc, thuốc men qua giúp đỡ. Có lần bé Châu cằn nhằn: – Ai quen lạ gì bà cũng cho. Rồi bà còn tiền đâu mà xài?
Mẹ cười hiền:
-Bà tích đức cho tụi bây đó. Đời bà đã gần cuối nhưng đời tụi bây còn dài. Đừng bao giờ quên mình ăn thì hết, người ta ăn thì còn đó con ơi. Vả lại bà già rồi, đâu cần mua sắm gì nhiều.
…. Ngày xưa mẹ đẹp lắm. Đẹp và thông minh nhứt trong số năm cô con gái của ông bà ngoại. Người dong dỏng cao, da trắng nõn, cặp mắt lá răm. Hai bàn tay búp măng tuyệt đẹp. Ông ngoại là điền chủ miệt Hậu giang. Nhưng không giống những người cùng thời, ông rất cấp tiến. Trai gái đều được cho đi học như nhau. Trong nhà ông đặt mua tất cả các thứ sách báo để mọi người cùng đọc, cùng học hỏi. Ông có một người em làm Đốc phủ sứ tại Sóc Trăng. Ông bà Bảy có hai trai, cậu Thuận và cậu Hòa. Rất thèm có một cô con gái, nhưng sau hai cậu, bà không còn sanh thêm lần nào nữa. Một hôm về Đốc Vàng dự đám giỗ nhà ông ngoại, thấy năm cô tố nữ sàng sàng tuỗi nhau, cô nào cũng tươi như ngọc như ngà, ông bà ngỏ ý muốn xin một cô làm con nuôi. Sẵn dịp mẹ vừa học xong hết lớp tại trường làng, lại là đứa lanh lợi, thông minh, ngoại liền cho mẹ về làm con nuôi ông bà Bảy. Năm đó mẹ vừa tròn mười một tuổi. Từ nhỏ quen sống trong cảnh vui nhộn với anh chị em ( cả nhà ba trai, năm gái). Tự do cười giỡn, chạy nhảy. Quanh nhà vườn tược rộng mênh mông… Bây giờ phải sống gò bó trong phủ, cậu Thuận và cậu Hòa lại học tuốt trên Sàigòn, chỉ Ngày Tết hay nghỉ hè mới về nên mẹ cảm thấy lẻ loi, nhớ mấy đứa em, buồn vô tả! Mỗi lần bà ngoại xuống Sóc Trăng là mẹ lại khóc lóc đòi về. Ngoại phải dỗ dành, khuyên nhủ mẹ ráng học thành tài, bỏ ngang uổng lắm. Nhưng ráng tới hai năm là mẹ đuối! Một lần bà ngoại xuống Sóc Trăng thăm, lúc về chở đầy một ghe than đước, lợi dụng lúc hai bà đang bận rộn từ giã nhau, mẹ lẻn trốn xuống ghe. Đi được mấy tiếng đồng hồ, biết chắc ghe không thể nào trở lui lại được, mẹ mới ló đầu ra. Tuy tức giận hết sức, nhưng nhìn thấy mặt mũi, mình mẫy mẹ như con lọ lem, bà ngoại phải phì cười… Về tới nhà mẹ bị ông ngoại cho một trận đòn nhớ đời! Bị đòn đau lắm nhưng mẹ nhứt định không trở xuống Sóc Trăng nữa. Ông bà ngoại đành cho mẹ theo dì Trâm học nữ công, gia chánh.
Trong thời gian còn ở Sóc Trăng với ông bà Bảy, có nhiều chuyện nho nhỏ xảy ra khiến cho khối óc non nớt của mẹ nhớ hoài và cũng là tấm gương sáng cho mẹ sau này. Số là một hôm mẹ theo chị bếp xách giỏ đi chợ. Mua xong nải chuối già hương chín vàng, hai người ngồi xề xuống gánh bánh canh kêu hai tô. Cái giỏ có nải chuối đặt bên cạnh. Say sưa với tô bánh canh bột lọc, giò heo, tôm cua béo ngậy.. không ai để ý đến cái giỏ. Chừng ăn xong quay qua kiếm, thì cái giỏ cùng nải chuối đã không cánh mà bay mất tiêu! Hai người dáo dác chạy đi kiếm. Cuối cùng bắt gặp cái giỏ có nài chuối trên tay một chị nhà quê. Chị bếp giận dữ giựt cái giỏ lại, nhưng chị kia cũng không vừa, nhất định không buông. Hai bên vừa dằng co vừa cãi lộn om sòm, người nào mặt mũi cũng đỏ như gấc, thì may có chú Đội đi qua. Chị bếp mừng quá gọi chú lại. Có mẹ làm chứng, nên chú Đội bắt người đàn bà kia dẫn về phủ, phạt nhổ cỏ trước sân.
Tan buổi hầu, dùng cơm trưa xong, ông Bảy đi thơ thẩn trước hàng ba cho tiêu cơm, chợt nhìn thấy một người đàn bà đang lom khom nhổ cỏ dưới cái nắng chang chang. Nhưng điều làm ông ngạc nhiên là ngoài cổng có một người đàn ông, tay bồng đứa nhỏ chừng một tuổi, đi qua đi lại, cặp mắt nhìn chăm chăm vào người đàn bà. Đứa trẻ thỉnh thoảng lại dẩy dụa, khóc ré lên. Người đàn ông vừa dỗ con vừa nhăn nhó ra chiều rất đau khổ! Ông Bảy kêu người nhà ra hỏi. Biết được nguyên nhân, ông cho gọi chú Đội lên rồi quở rằng:
– -Làm người ai cũng biết xấu hổ. Nếu cô ta có đánh liều ăn cắp nải chuối, cũng bởi cô ta thèm mà không có tiền mua. Tội này không đáng bị trừng phạt như vậy, nhứt là bắt đứa trẻ phải chịu khát sữa, tội nghiệp quá!
Ông bảo tha người đàn bà về và cho luôn nải chuối. Giáp ranh nhà ông ngoại ở Đốc Vàng là nhà ông Ba Thạnh. Ông này có bà con xa. Tuy không nghèo nhưng bản tánh keo kiệt, tham lam, nhiều lần lén lút lấn ranh đất nhà ông ngoại nên hai gia đình thường xảy ra cải cọ. Sau này giặc giả, gia cảnh sa sút, ông ba Thạnh xoay qua buôn bán. Có lần ông chở một ghe đồ gỗ đi bán dọc theo các tỉnh hai bên bờ sông Cửu Long. Ghé tới Sóc Trăng, ông ta bị bắt vì tội không đóng thuế thân. Lúc bị đưa vào công đường, nhìn thấy ông Bảy, ông ta hồn bất phụ thể, chắc mẻm phen này thế nào cũng bị ông Phủ phạt nặng để trả thù cho ông anh. Nào ngờ, khi nhận ra ông ba Thạnh, ông Bảy niềm nở hỏi han và còn ứng ba đồng bạc cho ông ta đóng thuếụ. Nói làm sao hết nỗi vui mừng và lòng biết ơn của ông ba Thạnh! Khi trở về Đốc Vàng, đi tới đâu ông ta cũng hết lòng ca ngợi ông Bảy và cuộc chiến tranh lấn đất với ông ngoại cũng tự động tan biến luôn…
Mẹ lấy ba năm mười bảy tuổi, qua sự mai mối của một bà bác dâu. Bà này góa chồng sớm, một tay bương chải nuôi đàn con thơ. Quanh năm với chiếc áo dài đen, tay xách cây dù xuôi ngược khắp nơi. Nhà nào có cam quít, soài, dừa…là có bà đến thăm. Bà cũng là thân chủ thường xuyên bao trái cây vườn nhà ông nội của Mai. Khâm phục sự đảm đang, giỏi dắn của bà, một hôm ông hỏi bà có cô cháu gái nào đến tuổi cập kê thì làm ơn mai mối cho con trai của ông (ngược lại với ông ngoại, ông nội có năm trai, ba gái). Ông nói: – Tui chắc cháu chị cũng sẽ giỏi giang như chị. Nói dại sau này con tui có qua đời sớm, tui cũng yên tâm cho lũ cháu- không ngờ lời tiên đoán này lại trúng phóc! Cha chả, gì chớ cháu gái bà đâu có thiếu! Vả lại một bên là ông Cả, một bên là ông Chủ, môn đăng hộ đối quá rồi còn gì nữa? Bà bèn nhận lời và về bàn bạc với ông bà ngoại.
Mẹ mười sáu, ba hai mươi. Hôm đàng trai đến xem mắt, vẻ khôi ngô tuấn tú của ba làm mẹ xiêu lòng liền và nét duyên dáng, yểu điệu của mẹ cũng khiến ba khó mà từ chối!
Sau đám hỏi, mẹ bắt đầu sửa soạn may áo quần, mùng mền…chuẩn bị cho cuộc đời làm vợ tương lai. Nhưng mẹ đâu có ngờ giấc mộng đầy hoa gấm của mình tan tành như mây khói, chỉ vài ngày sau khi bước chân qua ngưỡng cửa nhà chồng! Bà nội là người có đầu óc cổ hủ. Bà khắt khe với tất cả các con dâu. Bác ba Đại là trưởng nam của ông nội. Lúc còn học trên Sàigòn, bác gặp và thương bác gái, ông bà phải lên Sàigòn tổ chức đám cưới. Gia đình bác gái dân tây, quen cách sống phóng khoáng nên vềà quê làm dâu chưa đầy một tháng, bác chịu không nổi, nhứt định đòi trở về với gia đình trên Sàigòn. Cuối cùng bác trai cũng đành cuốn gói chạy theo tiếng gọi của con…tim! Rồi lập nghiệp luôn trên đó.
Bà ngoại biết mẹ yếu đuối, không quen cực khổ, nên lúc về nhà chồng, bà cho một cô tớ gái đi theo, hầu đỡ đần những công việc nặng nề. Nhưng bà nội có một lập trường dứt khoát, chắc như đinh đóng cột: – Nhà tôi là nhà làm ăn, không phải chỗ cho mọi người bẹo hình bẹo dạng, quần là aó lượt!
Mẹ đành thở dài, xót xa xếp những chiếc áo gấm, áo thêu, mà mẹ đã bỏ ra biết bao nhiêu tâm huyết để hoàn tất, xuống tận đáy rương. Những chiếc quần cẩm tự, sa ten tuyết nhung trắng muốt được đem nhuộm đen… Từ một tiểu thư đài các, nếu không thêu may thì cũng đọc sách hoặc làm các thứ bánh trái, bây giờ phải thức khuya dậy sớm, suốt ngày làm quần quật không ngơi tay, nên mẹ cứ bịnh hoài. Bà nội càng ghét, cho là mẹ làm bộ nhõng nhẽo với ba để trốn việc!
Lúc anh Tùng chào đời, mẹ mừng lắm, tưởng sẽ được tự tay săn sóc cho con, nào ngờ bà nội dành luôn nhiệm vụ đó. Nhiều lúc anh khát sữa khóc lả người, bà vẫn điềm nhiên cho anh bú… vú da! Mẹ đứt từng đoạn ruột nhưng không dám phản đối. Ông nội biết tánh bà nên hay binh mẹ. Điều này chẳng những không có lợi, mà còn bị ” ép phê” ngược!!
Ba là một người đàn ông rất đẹp trai, tính tình hào hoa, ăn nói lại duyên dáng, nên các bà các cô mê như điếu đổ. Trong đám tá điền của ông nội có gia đình ông Sáu Can ở cách nhà độ ba cây số. Hai ông bà có một cô con gái rất đẹp tên Kim Phụng. Người đẹp nhưng tính nết lẳng lơ. Không hiểu cô ta ỏn thót làm sao, mà ông thân sinh hào hoa phong nhã của Mai quyết định lập cô ta làm… phòng nhì ( tất nhiên bà chánh thất không hề được đức lang quân thông báo cái chương trình rất ư là kém hấp dẫn này!). Có điều ổng mù tịt là bà có một màn lưới gián điệp rất bén nhạy. Nhờ Mai có một bà cô họ nổi danh Sư Tử Hà Đông: ông chồng bà thuộc loại già không bỏ nhỏ không tha nên bà có tai mắt khắp nơi. Mấy ” con đĩ ngựa” vừa mới nhúc nhích ngón tay út là bà đã được …vô tuyến truyền miệng thông báo liền tức khắc . Vì vậy mẹ biết đích xác ngày giờ và nơi chốn của buổi tiệc ” tân hôn” sắp diễn ra.
Tối ” hôm đó”, sau bữa cơm chiều, ba lấy xe đạp ra đi, trên tay có cầm một gói giấy khá lớn. Mẹ hỏi đi đâu, ông trả lời đi họp. Mẹ vẫn thản nhìên, mặt không hề đổi sắc. Độ mươi phút sau, bà tập hợp đám tay chân bộ hạ gồm có chị Xuân, chị Yến (con cô hai Bạch) và chị Thư (con bác ba Chung). Tất nhiên là mẹ phải trả tiền công và năn nỉ gãy lưỡi họ mới chịu hợp tác. Mấy cô sợ bị chú Tân đánh đòn. Năm đó lớn nhất là chị Xuân, mười ba tuổi, chị Thơ mười hai, chị Yến mới mười một. Nhà quê ban đêm trời tối như mực. Mấy thiếm cháu phải đốt đuốc mới thấy đường đi. Gần tới nhà cô Phụng, mẹ tắt đuốc đứng xa xa rình. Trong nhà đèn đuốc sáng choang, tiếng cười nói vang ra tới ngoài lộ. Khi nghe tiếng ba dặn người câu đêm được bao nhiêu tôm cá cũng phải đem lại hết thì mẹ mất bình tĩnh, kéo đám lâu la tới ngay trước cửa. Tội nghiệp đám nhi đồng run như cầy sấy! Mẹ sôi gan khi nhìn thấy ông chồng yêu quí của bà đứng song song với ” con ” Kim Phụng trước bàn thờ gia tiên nghi nghút khói hương. Lại còn dám diện cái áo dài gấm xanh nữa mới là động thiên đình! Cặp mắt toé lửa, bà xông vô nhà, túm ngay vạt áo dài của ông kéo mạnh. Vạt áo tét lên tới nách! Tay kéo miệng la:
– Anh làm cái gì đây? Đám cưới hả?
Ba Mai thấy vợ thì rụng rời. Một tay bụm miệng bà, một tay ôm ngang eo ếch, lôi ra khỏi nhà. Mẹ dãy dụa kịch liệt, nhưng vốn yếu đuối nên chống cự không nổi, bị lôi trở ra đường lộ. Để bà đứng đó dậm chân khóc lóc, ông vội chạy đi lấy xe đạp, rồi kéo bà lên ngồi trên đòn dong, hối hả đạp đi, mặc cho đám nhỏ vừa chạy theo sau vừa khóc ỏm tỏi vì… sợ ma!! Hôm sau, biết được chuyện, mẹ bị bà nội rầy cho một trận :
-Trai năm thê bảy thiếp là chuyện thường. Nó đi chán rồi lại về, có… hao mòn, sứt mẻ gì đâu mà phải ghen!?
Mỗi lần được về thăm ông bà ngoại là mẹ mừng còn hơn bắt được vàng. Mặc sức ăn, ngủ, cười giỡn. Càng gần tới ngày phải trở về nhà chồng, mẹ càng u sầu, ủ dột. Bà ngoại chuẩn bị đủ thứ quà cáp để mua lòng bà sui. Mẹ kể, ghe về gần đến nhà, xa xa nhìn thấy cái cầu tàu nhà ông bà nội, mẹ chỉ muốn nhảy xuống sông tự tử phứt cho rồi! Có lần Mai nói nếu là con thì con không thèm trở về. Ở luôn nhà ông ngoại cho khỏe! Mẹ lắc đầu, chép miệng:
-Bộ con tưởng mẹ chưa từng nghĩ đến điều đó sao? Nhưng thời xưa, con gái bỏ chồng là một điều sỉ nhục cho gia đình. Ai gặp trường hợp của mẹ cũng đành phải cắn răng chịu đựng thôi.
Mai thầm nghĩ các cụ ngày xưa quả có một ” nội lực” phi thường. Có lần cô Tư Xuân của Mai phát biểu một cách khinh bỉ, khi nghe cặp bạn của con bà sắp sửa ly dị vì lý do… hổng hợp tính tình:
-Chèn ơi, hồi đó mà như bây giờ, chắc tao đã bỏ ba tụi bây cả trăm lần rồi! Ngày nay thay vợ đổi chồng còn lẹ hơn thay áo. Tao thấy mà bắt chóng mặt!
… Có điều an ủi là mẹ được mọi người trong làng yêu mến. Bất cứ ai cần gì mẹ cũng giúp đỡ tận tình. Ngay từ thuở còn chạy chơi với đám bạn nhỏ trong xóm, mẹ đã biểu lộ cái tánh thương người. Trong làng có một người đàn bà tên Lý. Lúc trẻ lên tỉnh làm nghề “không vốn”. Mới ngoài ba mươi đã vướng phải bịnh giang mai. Thân tàn ma dại, đi đứng không nổi cũng ráng mò về làng cũ. Nhưng đi đến đâu cũng bị thiên hạ xua đuổi. Mẹ thấy vậy huy động các bạn, cất một cái chòi lá phía sau đình làng, để bà ta có chỗ che nắng che mưa. Lúc đầu phân công mỗi ngày một đứa đem thức ăn cho bà . Sau đó đám bạn bỏ cuộc dần dần, cuối cùng chỉ còn mẹ hằng ngày vẫn đem cơm nuôi bà ta cho đến lúc qua đời. Chuyện này đương nhiên vì không có thuốc làm sao hết bịnh?.
Trong cuộc đất của ông nội, có gia đình bác Hai Dần, con đông lại ngèo xác nghèo xơ. Bác cho đứa con trai tên Hiền, năm đó độ mười lăm mười sáu, ở cho ông nội sai vặt. Bác gái hằng ngày xách cần đi từ bến nọ qua bến kia, câu những con cá lụn vụn như cá lòng tong, cá chốt, cá mại, cá trèn… đủ cho hai bữa cơm. Ba cô lớn, đến mùa lúa thì cấy mạ mướn, lúc lúa chín thì đi gặt . Hai đứa nhỏ nhứt mót lúa để dành ăn. Riêng bác trai mắc bịnh lao, ốm yếu hom hem nên được miễn lao động!…Năm ngoài Bắc bị nạn đói chết hơn một triệu người, miền Nam cũng gặp nhiều khó khăn. Một hôm mẹ qua nhà bác Dần định nhờ việc gì đó. Thấy trong nhà im lìm, mẹ lên tiếng gọi cũng không ai trả lời. Lấy làm lạ bà bước vô xem thử, chợt thấy bác trai nằm trên cái chỏng tre, thở thoi thóp. Thấy mẹ, bác gượng ngồi dậy nhưng không nổi lại nằm vật xuống. Mẹ định lên tiếng hỏi thì vừa lúc bác gái xách cần câu và cái giỏ có lèo tèo mấy con cá lòng tong về tới. Bác gái cũng ốm nhom, đi không muốn nổi! Vừa thấy mẹ, bác oà lên khóc. Mẹ hỏi mới biết rằng cả mười ngày nay nhà bác không có một hột gạo. Phải ăn rau luộc cầm hơi, chờ mấy cô con gái đi cấy lúa mướn đem tiền về. Chỉ lo bác trai yếu quá sợ không qua nổi. Nghe xong mẹ vội vàng về nhà, lén bà nội xúc một thúng gạo biểu anh Hiền bưng về cho mẹ anh nấu cơm. Từ đó, thỉnh thoảng mẹ lại dấu diếm ít gạo, nước mắm tiếp tế cho gia đình bác Dần qua cơn túng quẩn.
Một gia đình khác, bác Tư Đức cũng nghèo và đông con như bác Hai Dần (cái mục này rất dễ hiểu, vì nhà nghèo không có thú vui lành mạnh nào ngoài cái thú vui sản xuất… nhi đồng!). Cậu con trai mười bốn tuổi tên Đẩu ở chăn đàn bò cho ông nội. Cùng nạn đói ngoài Bắc, trong Nam bị nạn thiếu vải trầm trọng nên dân nghèo phải mặc rách rưới, vá chằng vá đụp. Còn rận thì vô số kể. Người nào người nấy ngồi đâu gãi đó, gãi đến toé máu mới thôi! Quần áo cả nhà mẹ luôn luôn bắt nấu với nước sôi để diệt trứng rận.
Trong Nam, khoảng tháng mười, tháng mười một âm lịch, cũng có chút gió bấc thổi hiu hiu. Tuy gió hiu hiu nhưng cũng lạnh se da. Một hôm ra thăm ruộng, mẹ ngạc nhiên tột độ khi nhận ra giữa đàn bò đang nhởn nhơ ăn cỏ, anh cu Đẩu trần truồng như nhộng ngồi trên lưng con bò Đốm. Mỗi khi cơn gió bấc thổi qua, cậu ta lại run lên cầm cập! Hỏi ra mới biết cả nhà bây giờ chỉ còn mấy bộ đồ rách te tua, dành cho bác gái và mấy cô chị của cậu. Ngay cả bác trai cũng chỉ đóng cái khố… Ba Mai làm sở lúa gạo dưới Sađéc nên nhà lúc nào cũng có trữ nhiều bao bố tời. Mẹ lén lấy một mớ, bảo anh Đẩu đem về để bác gái cắt thành quần áo cho cả nhà mặc đỡ và không quên đưa thêm vài bộ đồ cũ của mẹ cho mấy chị mặc khi đi ra ngoài… Kể sao cho hết những nghĩa cử của mẹ đối với chòm xóm, láng giềng…
Rất lâu, sau này đi làm ăn xa trên vùng cao nguyên Trung phần, một hôm Mai thấy mẹ dẫn về nhà một cô gái độ mười bảy mười tám. Người ngợm chỉ còn là một bộ xương biết đi. Mẹ nói gặp cô ta đang lang thang ngoài đường, đi đứng xiêu vẹo như người hết hơi! Cô ta nói bị bịnh thương hàn, nằm nhà thương mới xuất viện sáng nay. Tứ cố vô thân không biết đi về đâu. Động lòng trắc ẩn mẹ dẫn về nhà nuôi cho mạnh, sau đó muốn đi đâu thì đi…
Những năm giặc giã sôi động, ba lên Sàigòn ở với chú Sáu Tú. Một mình mẹ phải cáng đáng hết mọi việc trong ngoài. Thỉnh thoảng còn phải dẫn chị em Mai chạy tuốt vô trong đồng sâu trốn những trận ruồng bố của lính Tây. Cực ơi là cực. Vậy mà không bao giờ mẹ mở miệng than van.
Đến khi chú út Khang lập gia đình thì ông bà nội cho ba mẹ ra riêng. Cũng tứ lúc đó ba bắt đầu bị đau bao tử và chai gan, nên sức khoẻ yếu dần và mẹ cũng bắt đầu đi vào con đường thương mại. Cũng giống như bà bác dâu thủa nào, mẹ đi khắp nơi tìm mua những thứ có thể bán được. Từ gà vịt, heo bò đến trái cây đủ loại…Mai còn nhớ như in một lần theo mẹ chở một ghe soài hòn xuống Vĩnh Long. Giữa đường giông gió nổi lên, mưa như trút nước. Chiếc ghe nghiêng qua ngã lại như sắp chìm. Mai run như cầy sấy, ôm mẹ chặt cứng vì tưởng hai mẹ con sắp bỏ mạng trên giòng sông Cửu Long, mà thường ngày Mai thấy rất hiền hòa!…May mắn lần đó tai qua nạn khỏi.
Anh Thăng và chị Lan lần lượt lập gia đình. Đến năm Mai lên mười bốn thì ba mất vì chứng xuất huyết bao tử. Sau đó Mai rời bỏ miền Hậu giang cây trái sum suê, theo mẹ lên lập nghiệp nơi miền Cao nguyên đồi núi chập chùng.
Những tháng đầu lạ nước lạ cái lại không quen ai, mẹ gặp rất nhiều khó khăn. Bị những người đi trước chèn ép, hiếp đáp. Nếu là người khác chắc chắn đã bỏ cuộc. Nhưng mẹ là một người tính khí quật cường, lại từng được tôi luyện trong “lò” của bà nội suốt mười mấy năm ròng, nên nhất định không lùi bước! Và bà đã thắng cuộc. Khách hàng thích tánh tình vui vẻ, cởi mở của mẹ nên tiệm lúc nào cũng nườm nượp khách…
Mỗi lần về quê thăm nhà, mẹ mang rất nhiều tiền bạc, vải vóc để giúp đỡ cho người nghèo . Những năm cuối đời, bà nội bị lòa và đi đứng không được, chỉ ngồi một chỗ. Có lần Mai về thăm bà, bà nắm chặt tay Mai, mếu máo nói:- Tội nghiệp mẹ con, hồi xưa cực khổ quá! Mai cảm động bóp bóp tay bà, nói vài câu an ủi. Trong thâm tâm, Mai cho rằng đó là những lời nói sáng suốt nhất trong cuộc đời của bà!. Thiếm út Khang, đầu tắt mặt tối với đàn con gần chục đứa, đâu hơi sức nào để ý đến những lời chì chiếc của bà nội, nên bà nói gì thì cứ nói, thiếm xem như gió thoảng bên tai, tỉnh rụi như không!
Dù ở xa, nhưng mỗi lần có chuyện cần kíp là anh Thăng, chị Lan lại đánh điện cầu cứu. Mẹ vội vàng bỏ hết công việc, về quê để giải quyết mọi vấn đề rắc rối cho các con.
Sau 75, theo vợ chồng Mai sang Canada, mẹ trăn trở, thở dài, than vắn. Cắc ca cắc củm nào vải vóc, thuốc men, tiền bạc… gởi về Việt Nam cho gia đình anh Thăng, chị Lan. Mỗi bận nghe có thiên tai, bão lụt mẹ lại mất ăn, mất ngủ, đêm ngày ngóng trông tin tức….
Trời sinh ra mẹ là để lo cho tha nhân. Có cái quần cái áo nào đẹp, ai ngỏ ý thích cũng sẵn sàng tặng ngay. Món ngon vật lạ gì cũng dành cho con cho cháu. Không bao giờ nghĩ cho chính bản thân mình. Mẹ không đi nhà thờ, cũng chẳng đi chùa, nhưng lại giúp đỡ người vô số. Sau khi qua đời, có cả chục gia đình, đã từng thọ ơn bà, xin ảnh để thờ.
Cái mảnh vườn con con ở góc sân, lúc còn sanh tiền mẹ trồng đủ thứ rau: mồng tơi, quế, răm, húng, tía tô, thìa là… Mai vẫn giữ y nguyên. Mấy cây bạc hà tươi tốt, cứ đến mùa đông là Tiến lại đánh vào chậu, mang vô garage. Từ sáu năm nay, mỗi sáng đứng trong phòng nhìn qua cửa sổ, Mai vẫn có cảm tưởng như nhìn thấy bóng mẹ với mái tóc bạc phơ, thấp thoáng bên mấy luống rau, vừa tưới nước vừa nhổ cỏ dại, hoặc đang nâng niu từng cọng ngò, lá cải…
Bé Ngà trong phòng đi ra, thấy mẹ bèn xà xuống ngồi bên cạnh. Mai nói với con:
– Chúa nhật tới này cả nhà mình đi chùa. Tới ngày giỗ ngoại rồi đó con.
Bé Ngà chu mỏ :
-Đi dự lễ, dự văn nghệ thì vui, nhưng nhớ bà quá à! Con bé lẩm nhẩm tính rồi nói tiếp:
– Ngoại mất sáu năm rồi hả mẹ?
Mai gật đầu, giọng sũng buồn:
-Ừ sáu năm rồi. Nhưng kỳ ghê, lúc nào mẹ cũng có cảm tương như bà vẫn còn sống trong gia đình mình.
Bé Ngà cười cười:
– Mà có cái lạ nữa là từ xưa mẹ rất sợ ma. Bây giờ tự nhiên mẹ “tiến bộ” hẳn, dám ở nhà một mình.
– Đâu có gì lạ. Ngoại lẩn quất ở đây, ma cỏ nào dám hiện hồn nhát mẹ? Có ngoại bảo vệ là mẹ yên chí lớn.
Ngà ôm cổ mẹ, cười như nắc nẻ:
– Trời ơi, con không ngờ mẹ chưa già đã lẩm cẩm! Theo con, người tốt như bà, giờ này chắc phải đang “hưởng phước” trên thiên đàng mới hợp lý.
Mai cười theo con:
– Ừ, mẹ cũng biết điều đó. Nhưng mẹ thương ngoại quá, cứ “nghĩ đại” như vậy, có chết ông tây đen nào đâu mà sợ. Rồi nhìn đồng hồ Mai hối con:
– Lẹ lẹ lên cô nương, kẻo trể giờ học tiếng Việt. Tuần rồi mẹ nghe cô giáo nói sẽ dạy tụi con bài Lòng Mẹ của nhạc sĩ Y Vân đó. Bài này mẹ đã từng hát cách đây bốn chục năm.
Ngà lúc lắc cái đầu, tay vuốt mái tóc huyền chảy xuống tới thắt lưng:
– Con biết bài đó rồi, con nghe trong cuốn băng của cô Hoàng Oanh.
Rồi con bé cất giọng trong như giòng suối mát:
Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào
Lòng mẹ tha thiết như giòng suối hiền ngọt ngào…
Mai không ngăn được niềm cảm xúc, len lén đưa tay chùi vội giọt nước mắt vừa lăn tròn xuống má, gọi thầm : Mẹ ơi…
Mẹ Ngọc Châu đánh trống lảng bằng cách kêu con gái hỏi coi mọi việc sắp đặt xong chưa, đâu biết rằng con nhỏ đã nghe hết và đang tức bà bác dâu cành hông. Cô nhủ thầm, nếu không phải đám hỏi của anh Nhơn, cô mặc kệ bà muốn làm gì thì làm. Người gì mà phách lối dữ vậy không biết! May mà không có mặt đầy đủ mấy đứa con gái đành hanh, kiêu kỳ của bả bữa nay!
Suốt buổi lễ, bà Hội Đồng mặt mày chằm dằm, mặc cho ông Hội và vợ chồng cô em muốn nói gì thì nói. Trong bữa tiệc do nhà gái khoản đãi, bà ăn uống cho có lệ, không thèm khen một lời. Nhơn thấy thái độ bà mẹ như vậy cũng lấy làm áy náy, lo lắng. Phần Thanh Mây sau khi ra chào cha mẹ chồng tương lai, lạy bàn thờ gia tiên rồi là lui vô nhà sau. Ông bà Hương Hào cố gắng đủ mọi cách để lấy lòng sui gia. Bà Hội Đồng đưa cặp mắt khinh miệt nhìn chung quanh, từ cách bày trí cho tới những người thân thích đến dự mà bà kêu là cái- đám- nhà-quê. Trên người bà và cô con gái lớn sáng choang hột soàn cẩm thạch, trong khi cái đám nhà quê nọ chỉ thấy rặt là vàng y! Bà đi cho con dâu tương lai một đôi bông hột xoàn năm ly nước dầu hôi tím xanh, chiếu còn hơn sao Bắc Đẩu. Một chiếc cà rá và một mặt dây chuyền bằng cẩm thạch có cẩn bột soàn tấm. Bà con hai họ ai cũng tấm tắc khen vừa đẹp vừa sang.
Mấy đứa bạn cùng trang lứa với Mây ghen tức tới xanh máu mặt. Nhứt là cô Tư Kim Anh, con gái ông Hương Sư Mạnh. Cô này cũng là bạn học với Thanh Mây, nhưng lớn hơn hai tuổi. Cũng có tiếng là xinh đẹp trong huyện, nữ công gia chánh không có chỗ chê. Khổ nỗi nàng ngậm miệng thì được, hễ mỗi lần phát ngôn thì cái giọng chua chanh chát khế của nàng khiến người nghe phải nổi da gà! Vì vậy mà sắp sửa tiến tới cái tuổi hai mươi, nàng vẫn còn phòng không quạnh quẻ! Thấy Mây sắp sửa trở thành vợ yêu của cậu Út Nhơn, con dâu tương lai của ông bà Hội Đồng Đối, Kim Anh buồn bực bỏ ăn bỏ ngủ, người ngợm héo hon!
Phần bà Hương Hào, từ ngày thấy mình được sui gia với ông bà Hội Đồng Đáng thì sung sướng, hãnh diện bội phần. Những bà có “máu mặt” trong huyện tới mua vải đều được nghe bà kể lể tỉ mỉ về cái đám hỏi và cái gia đình sang trọng của ông bà sui bên Long Xuyên, không quên tô màu thêm chút đỉnh cho tăng phần lộng lẫy. Nhưng ở đời mình càng hơn người, càng bị ghét! Nếu không làm sao có câu ở rộng người cười, ở hẹp người chê?
…Chỉ mới một tháng sau đám nói, bà Hương như thường lệ, nghỉ trưa xong trở ra tiệm thì thấy cô Tư Kim Anh đang nói chuyện với Thanh Mây. Thấy bà, Kim Anh đứng lên chào rồi ra về. Từ đó tới chiều thấy con gái buồn bực, thẫn thờ như có chuyện phải suy nghĩ dữ lắm, bà Hương hỏi lý do nhưng Mây cứ lắc đầu, nói tối về nhà mới tiết lộ được. Bữa cơm chiều Mây ăn được nửa chén thì buông đũa. Bà Hương lật đật theo con gái vô buồng. Bà nghĩ chắc có chuyện gì ghê gớm lắm, chớ từ trước tới nay Mây vốn là đứa vô tư, đâu có bao giờ buồn tới bỏ cơm.
Thấy con gái ngồi ở mép giường, đầu cúi xuống có vẻ suy nghĩ. Bà Hương bước tới ngồi bên cạnh, nhỏ nhẹ hỏi có chuyện gì thì Mây ngửng lên, cặp mắt lộ vẻ tức tối, cô gằn từng tiếng:
-Má à, con muốn thối hôn với anh Nhơn.
-Cái gì. Thối hôn? Bà Hương thảng thốt hỏi, không tin ở lỗ tai mình!
-Dạ phải. Con không muốn về làm dâu bà Hội Đồng Đáng. Bả ỷ giàu rồi khinh khi gia đình mình.
Bà Hương Hào nghe tới đây thì tá hỏa, vội vàng nói:
-Thiệt tình má hổng hiểu gì hết trơn. Bây giờ con từ từ kể đầu đuôi cho má nghe coi chuyện gì đã xảy ra. Có phải hồi trưa con Kim Anh đã nói gì với con phải hôn?
Mây gật đầu rồi bắt đầu kể cho mẹ nghe lý do nào cô muốn thối hôn…
…Tư Kim Anh là hàng xóm của Ngọc Châu. Hai nhà chỉ cách nhau cái hàng rào bông bụp. Hai bà má hay qua lại chuyện trò, hoặc cho chác nhau những thứ lặt vặt như rau cỏ, cây trái trong vườn. Hôm kia má của Kim Anh qua nhà Ngọc Châu cho chục vú sữa tím mới hái. Hai bà nói chuyện một hồi rồi nhắc tới đám hỏi của Chơn và Thanh Mây. Má Ngọc Châu còn hậm hực bà Hội Đồng nên đem những lời than thở của chị dâu kể hết cho bạn nghe. Bà này càng nghe càng khoái chí, thấy cơ hội trả thù đã nằm trong tầm tay. Số là Kim Anh có người anh trai đã từng theo đuổi Thanh Mây một thời gian dài, nhưng không có kết quả. Bị thất tình cậu bỏ xứ lên Nam Vang làm ăn. Bà má của Kim Anh nhớ thằng con trai duy nhứt da diết, nên đâm hận kẻ đã gây ra chuyện này là Thanh Mây. Về sau thấy tình duyên của con nhỏ trời đánh lại lên như diều gặp gió, qua mặt con gái bà cái vù, thì mối hận lòng càng tăng gấp trăm lần. Bữa nay đúng là Trời thương. Má con con mẹ Hương Hào sẽ biết tay bà. Nghe nói lúc này con mẻ lên mặt lắm mà! Bà hí hửng về nhà kể cho con gái cưng nghe không sót một lời nào, rồi biểu Kim Anh làm bộ ra mua vải để đem chuyện này kể lại cho con Mây nó nghe. Kim Anh nhứt nhứt làm y theo lời mẹ dặn và cuối cùng những lời miệt thị của bà Hội Đồng đã đến tai Thanh Mây. Cô nghe mà như bị kim chích vào lòng, đau đớn vô tả. Té ra cô đã trèo cao. Cô chỉ là một đứa con gái quê mùa, nghèo hèn không xứng làm dâu nhà bà Hội. Thiệt đúng đũa tre mà đòi mâm son! Thôi thì tố nào theo tố nấy đi. Cô nhứt định thối hôn.
Bà Hương Hào nghe xong thì lặng đi một lúc rồi nói:
-Thì con cũng cứ từ từ hỏi cho ra lẽ. Coi chừng mẹ con con Kim Anh đặt chuyện để chia rẽ con với thằng Nhơn. Má nghi họ muốn trả thù chuyện xưa. Con đừng hấp tấp mà trúng kế của họ. Để má sai con Mộng đi kêu con Ngọc Châu qua hỏi coi sao.
Nói rồi bà đứng lên ra ngoài kêu con gái út chạy đi mời Ngọc Châu qua có chuyện cần. Độ mười lăm phút sau thì Ngọc Châu qua tới. Bà Hương Hào ra hiệu cô đi theo bà vô buồng của con gái. Thanh Mây đưa cặp mắt buồn tê tái nhìn bạn. Thấy gương mặt ủ rũ của Mây, Ngọc Châu hết hồn quay lại nhìn bà Hương Hào như dò hỏi. Bà Hương tằng hắng lấy giọng rồi đem chuyện ban trưa kể lại cho Châu nghe. Cô này nghe tới đâu lạnh mình tới đó, thầm trách mẹ mình không kín miệng. Sau cùng bà nói:
-Cháu cứ nói thiệt cho thím với con Mây nghe. Mấy chuyện con Kim Anh kể là thiệt hay nó đặt chuyện để phá tụi này?
Trong lòng Ngọc Châu ba đào chuyển động. Nói láo thì cô không dám, mà xác nhận đúng thì trời ơi, cô biết cái hậu quả sẽ tai hại vô cùng! Nói sao đây??? Thấy bạn cứ ấp a ấp úng, ngập ngừng nói không nên lời, Mây thở dài:
-Con Kim Anh nói thiệt hết phải không? Thôi, cứ coi như tao với anh Chơn có duyên mà không nợ. Má ảnh sẽ kiếm một người vợ giàu sang xứng đáng hơn tao.
-Khoan khoan, mày đừng nóng. Ngọc Châu hớt hải nói. Bác gái tuy ác miệng nhưng tao chắc trong lòng bả không có gì đâu. Quan trọng là anh Nhơn thương mày…
-Con Châu nói đúng. Bà Hương Hào xen vô. Quan trọng là thằng chồng thôi con à. Nó thương mình là xong hết.
Thanh Mây nghe tới đây thì tức quá hừ một tiếng:
-Mấy người nói vậy mà nghe được? Châu, mỗi năm mày gặp bả mấy lần? Má, khi làm sui rồi mỗi năm má sẽ gặp bả mấy lần? Có ai nghĩ là con phải ở chung với bả suốt đời hay không? Hàng ngày ra vô đụng mặt, biểu con làm sao sống nổi đây? Không kể má con con Kim Anh sẽ đem chuyện này bán rao khắp bàn dân thiên hạ. Má chịu nổi cái nhục này hay sao? Con thì không.
Sau đó ai nói gì thì nói, Mây vẫn giữ vững lập trường. Nhơn năn nỉ cách nào cũng không được. Cậu về nhà gây một trận quá trời với bà mẹ, rồi tuyên bố không cưới được Thanh Mây cậu nhứt định ở vậy tới già! Bà Hội Đồng thấy Mây thoái hôn thì trong bụng mừng thầm. Tuy thằng con đe dọa sẽ không cho bà có cơ hội ẳm cháu nội, bà cũng không nao núng. Bây giờ nó còn trẻ nên nói hăng, mai mốt làm sao mà ở một mình cho được. Trai gái lớn lên thì phải có đôi có cặp. Bà thấy ai ở độc thân tới già đâu? Nồi nào thì cũng sẽ có vung nấy úp vô, lo gì? Biết đâu từ từ nó sẽ “mở mắt” để cho bà lựa một chỗ môn đăng hộ đối xứng với gia đình bà. Tuy trong bụng nghĩ vậy nhưng ngoài miệng bà Hội vẫn phải nói dã lả với con.
Út Nhơn sau đó buồn bã đâm ra rượu chè be bét. Cậu chơi bời xả láng nhưng vợ thì nhứt định không lấy. Bà Hội hối hận nhưng quá muộn màng.
Bà Hương Hào tiếc thằng rễ quý đau một trận thất kinh. Nhưng sau đó không lâu có một đám khác ở Cao Lãnh lên coi mắt Thanh Mây. Đám này tuy không giàu có, sang trọng như gia đình Nhơn, nhưng nghe nói cậu Tư Tân rất bảnh trai, lại đã từng học trường thầy dòng Tabert trên Sàigòn.
Câu chuyện bắt đầu từ bà bác dâu của Mây. Bà này góa chồng sớm nhưng ở vậy không tục huyền, một tay bương chải buôn bán nuôi đàn con thơ. Quanh năm mặc chiếc áo dài đen, tay xách cây dù xuôi ngược khắp mấy huyện. Nhà nào có vườn cam, vườn quít, xoài, dừa… là có bà ghé qua. Bà là thân chủ thường xuyên bao vườn trái cây của ông Cả Trọng. Khâm phục sự đảm đang, giỏi giắn của bà, một hôm vui miệng ông Cả hỏi bà có đứa cháu gái nào tới tuổi cập kê thì xin làm mai cho con trai của ông. Ông Cả có tới năm trai hai gái. Ông nói thấy chị giỏi quá, chắc cháu chị cũng không thua. Nói dại nếu con tui có qua đời sớm tui cũng yên tâm cho lũ cháu. Bà nhớ tới Thanh Mây vừa thối hôn với Út Nhơn nên nhận lời về bàn lại với người em chồng. Ông bà Hương Hào mừng lắm, nhưng Mây thì dửng dưng. Vừa mới bị một cú đích đáng, cô thấy không mặn mà lắm tới chuyện chồng con.
Nhưng khác với lần đầu tiên gặp Nhơn, lúc Mây bưng nước ra mời ông bà Cả Trọng, nàng liếc qua chàng thanh niên ngồi gần đó, thiếu chút nữa là làm rớt tách trà. Trời ơi, Mây nghĩ thầm, Phan An Tống Ngọc trong truyện Tàu cũng chỉ đẹp trai cỡ anh chàng Tân này chớ hơn gì. Trước khi lui gót trở vô Mây còn làm gan liếc anh ta cái nữa. Lần này gặp ngay ánh mắt sáng rực của Tân đang chiếu về mình với nụ cười nửa miệng thì Mây…xiểng niểng, cặp má đỏ bừng! Vô tới nhà trong cô đưa bàn tay run rẩy chặn lên ngực như muốn đè bớt nhịp đập loạn xạ của con tim! Ai cũng phải nhìn nhận dung mạo của cậu Tân này ăn đứt Út Nhơn. Cậu hao hao giống bà Cả. Thời còn con gái bà đẹp nổi tiếng cả một vùng. Trời còn ban cho cậu ta cái miệng ăn nói duyên dáng nữa mới là chết…phái nữ! Sau này Thanh Mây mới biết lúc còn học ở Sàigòn, cậu đã từng làm tan nát biết bao con tim non dại. Lần này lên coi mắt Mây, nét mặn mà, yểu điệu của cô cũng khiến chàng thanh niên đa tình này xiêu lòng.
Mọi chuyện tiến triển tốt đẹp. Thanh Mây hân hoan sửa soạn may quần áo, mùng mền…chẩn bị cho cuộc đời làm vợ tương lai. Hôm đám cưới ai cũng khen cô dâu chú rể đẹp như Tiên Đồng Ngọc Nữ. Mây về nhà chồng trong trạng thái cực kỳ hạnh phúc. Nhưng cái hạnh phúc này đôi khi bị ông chồng rất ư đa tình của cô làm xáo trộn. Thanh Mây bây giờ trở thành mợ Tư Tân. Ba năm mợ cho ra đời một trai một gái. Hai đứa đều khỏe mạnh xinh đẹp. Bận bịu con cái, thêm nữa dầu bà Cả không đến nỗi khó khăn, kênh kiệu như Bà Hội Đồng Đáng, nhưng cũng không thuộc loại hiền, dễ thông cảm. Từ một cô con gái chỉ biết phụ mẹ buôn bán, bây giờ về làm dâu, mợ Tư ban ngày đầu tắt mặt tối, đêm về mệt mỏi, tứ chi rã rời chỉ muốn lăn ra ngủ cho lại sức. Nhiều khi cậu Tư muốn bàn bạc hoặc kể lể năm ba câu chuyện với vợ, nhưng câu trước câu sau là mợ đã ngáy khò khò. Cậu cảm thấy buồn chán, lẻ loi nên cứ vài ba bữa lại theo đám bạn cũ đi nhậu nhẹt như thuở còn độc thân vui tánh. Những chuyện tình lăng nhăng của cậu nhiều khi cũng tới tai mợ, nhưng lần nào hễ mợ cằn nhằn là cậu bỏ liền tức khắc. Mợ Tư yêu chồng tha thiết nên dễ dàng tha thứ. Cũng vì vậy mà dần dần cậu đâm ra lờn.
Trong đám tá điền của ông Cả có gia đình ông sáu Cang ở cách nhà độ ba cây số. Ông này có cô con gái tên Kim Phụng. Đúng là cha mẹ cú đẻ con tiên, cô Phụng đẹp sắc sảo, mặn mà không thua mấy cô tiểu thơ đài các. Người đẹp nhưng tánh nết lẳng lơ. Không hiểu cô ta rù quyến, ỏn thót làm sao mà cậu Tư có ý định lập cô ta làm phòng nhì. Tức nhiên bà chánh thất là mợ Tư không hề được đức lang quân thông báo về cái chương trình rất ư là kém hấp dẫn này! Có điều cậu mù tịt là bà vợ có một màng lưới gián điệp rất tinh vi. Đó cũng là nhờ cô em chồng của mợ. Ông chồng cô này thuộc loại già không bỏ nhỏ không tha, nên cô có tai mắt khắp nơi. Mấy con “đĩ ngựa” vừa mới nhúc nhích ngón tay út là cô đã được cái đám…vô tuyến truyền miệng thông tin liền tức khắc. Cô thương bà chị dâu cứ bị anh mình làm khổ nên hết lòng giúp đỡ. Nhờ vậy mợ Tư đã biết đích xác ngày giờ cùng nơi chốn của buổi tiệc sắp diễn ra.
Tối “hôm đó”. Sau bữa cơm chiều, cậu Tư lấy xe đạp ra đi, tay xách theo một gói giấy lớn. Mợ làm tỉnh hỏi đi đâu thì cậu nói đi họp trên Đình độ vài tiếng đồng hồ là về liền. Mươi phút sau, mợ Tư tập họp đám tay chân bộ hạ gồm hai chị em con Xuân, con Yến là con bà chị lớn của cậu Tư, con Thơ là con người anh chú bác. Tức nhiên mợ phải trả tiền hậu hĩ và năn nỉ gãy lưỡi mấy đứa này mới chịu hợp tác. Con Xuân mới mười ba tuổi, con Yến và con Thơ mới mười một. Ở nhà quê ban đêm trời tối như mực. Mấy thím cháu phải đốt đuốc mới thấy đường đi. Gần tới nhà cô Phụng, thím Tư tắt đuốc đứng xa xa rình. Trong nhà thắp đèn măng sông sáng trưng, tiếng cười nói vang ra tới ngoài lộ. Mợ còn lưỡng lự chưa biết tính sao, tới khi nghe tiếng cậu Tư dặn người câu đêm, câu được bao nhiêu cá tôm cũng đem lại đây hết thì mợ mất bình tĩnh, kéo đám lâu la tới ngay trước cửa. Tội nghiệp đám nhi đồng run như cầy sấy. Mợ sôi gan khi nhìn thấy ông chồng yêu quý của mình đứng song song với con Phụng “ngựa bà” trước bàn thờ gia tiên khói hương nghi ngút. Lại còn dám diện cái áo dài gấm xanh bông chữ thọ mới là động trời! Cặp mắt tóe lửa, đôi chân như được chấp cánh, mợ “bay”vô nhà, túm ngay vạt áo dài của cậu kéo mạnh. Vạt áo tét cái rẹt lên tới nách! Mợ la lớn:
-Mấy người làm cái gì đây. Đám cưới hả?
Cậu Tư thấy vợ thì rụng rời. Một tay bụm miệng, một tay ôm ngang eo ếch, cậu cố lôi mợ ra khỏi nhà của tình nhân. Mợ Tư giãy giụa kịch liệt định chuyến này ăn thua đủ với Con Đĩ-Cướp-Chồng đang đứng như bị trời trồng ở giữa nhà. Nhưng vốn yếu đuối, mợ chống không lại với ông chồng to con, bị lôi trở ra đường lộ. Để vợ đứng đó, cậu Tư vội vàng chạy đi lấy xe đạp, kéo mợ ngồi lên đòn dong rồi hối hả đạp đi, mặc cho đám lâu la vừa chạy theo sau vừa khóc ỏm tỏi vì…sợ ma!
Về tới nhà cậu lại dở cái chiêu năn nỉ. Nhưng lần này câu chuyện trầm trọng quá. Cậu nhẫn tâm định lập phòng nhì! Thương mấy thì thương cũng phải cho hắn biết tay. Mợ ngồi phịch xuống mép giường, vừa khóc vừa nói một cách chắc nịch là ngày mai mợ sẽ đem hai đứa nhỏ về nhà ông bà ngoại ở luôn. Cái Tết sắp tới bà Cả xoay trở ra sao mợ cũng mặc kệ. Nghe tới đây cậu Tư sợ quá, cái nhà này không có mợ là…tanh banh! Từ ngày mợ bước chân về làm dâu, bà Cả đã phó thác hết mọi chuyện trong ngoài cho mợ lo. Tối ngày hết ăn trầu lại nằm trên võng đưa qua đưa lại, cặp mắt nhắm hít, nhưng cái miệng không chịu nghỉ ngơi:
-Nè vợ thằng Tân, bây nhớ trở mấy xề cau tao phơi hồi sáng nghen. Ờ quên nữa, nói con Ni hái mớ rau càng cua chiều trộn giấm. Đừng quên biểu thằng Đực chặt mấy buồng chuối già chín bói phía sau nhà chị hai bây để mơi ép làm chuối khô. Sáng nay tao đi ngang cây mít ngoài góc vườn, nghe mùi thơm bay ra rồi đó. Coi chừng bị lũ tiểu yêu ăn cắp như lần trước là trơ mỏ!..v.v…
Có lần con Ni thắc mắc: Con không hiểu sao cặp mắt bà ngủ mà cái miệng bà lại thức? Cái này thì chỉ có Trời mới hiểu thấu!
Bây giờ Tết sắp tới với cả hai chục mạng trên Sàigòn về ăn Tết, mà vợ lại dọa khăn gói quả mướp ra đi, biểu sao cậu Tư không hồn phi phách tán. Thấy năn nỉ hoài mà vợ cứ ngồi đó khóc thút thít, cậu Tư quýnh quá quỳ xuống:
-Bây giờ em muốn gì anh cũng chịu. Em đừng bỏ về Đốc Vàng. Em đi là tía má giết anh chết!
Mợ Tư đang khóc, nghe câu này bỗng nín ngang, đưa cặp mắt như muốn xẹt lửa nhìn ông chồng thiếu chung thủy của mình, rồi hứ cái cốc:
-Biểu tui đừng đi là vì sợ tía má giết anh, chớ đâu phải tại thương yêu, núm níu gì tui phải hôn? Dễ quá mà. Cứ đem con Kim Phụng mất nết đó về đây thế vô chỗ của tui là xong, có gì mà lo! Tui chán cái tánh trăng hoa của mấy người lắm rồi. Nó vô thế mạng, nói có Trời làm chứng, tui còn cúng heo ăn mừng!
Thấy vợ chịu mở miệng, cậu Tư mừng húm, đi bằng hai đầu gối, sấn tới gần:
-Thôi thôi mình tha thứ cho anh nghen mình. Anh thề mà. Cô Phụng thì cũng là chơi qua đường. Anh chỉ thương một mình mình thôi. Anh mà nói láo Bà bắn!
Mợ Tư trề môi, xí một tiếng dài thòn đượm mùi khinh bỉ:
-Thiệt tình, Tiết Đinh San cầu Phàn lê Huê hồi xưa chắc còn thua anh xa. Bữa nay ráng suy nghĩ kỹ lại đi. Hồi nào tới giờ anh hứa, anh thề bao nhiêu lần, mà có lần nào anh giữ lời được hay không? Mợ càng nói càng nghẹn ngào, tức tưởi…
Cậu Tư vẫn còn quỳ, thấy vợ nói vậy thì lật đật dang tay ôm cặp giò của mợ đang thòng dưới đất:
-Không không, lần này anh nói thiệt. Anh thề độc cho mình tin…
-Thôi đi. Độc tới cỡ nào tui cũng đã nghe đầy hai lỗ tai rồi. Nếu lần này anh thành tâm thì ráng quỳ đó tới sáng đi. Tui mệt lắm rồi. Bây giờ để yên cho tui ngủ.
Mợ nói xong thì hất nhẹ cặp giò để rút ra khỏi vòng tay của ông chồng đang ôm cứng ngắt. Không ngờ cậu cũng quyết bám trụ tới cùng, không chịu buông ra. Hai bên giằng co níu kéo một hồi, cái quần lãnh Mỹ A lưng thun láng mướt chống không nổi… Cậu thừa thắng xông lên, vì biết đây là cơ hội cuối cùng có thể làm xiêu lòng bà vợ đang giận cậu tái tê.! Con bé Thanh My ra đời chín tháng mười ngày sau đó.
Hôm sau biết chuyện, bà Cả kêu mợ Tư lên nhà trên bắt nghe lại cái điệp khúc:
-Trai thì năm thê bảy thiếp. Lá rụng về cội. Nó chơi chán rồi cũng quay đầu dìa với vợ con. Có hao mòn sứt mẻ gì đâu mà bây ghen cho mệt. Làm um sùm xấu chàng thì hổ thiếp chớ hay ho gì?!
Mợ Tư nghe má chồng nói mà tức anh ách. Nhưng tối hôm qua mợ đã được chồng o bế một trận để đời nên cũng ráng nhịn, không trả lời đi trả lời lại gì hết, chỉ dạ dạ chấm câu.
Không hiểu cậu Tư có thiệt tu tỉnh hay không, nhưng từ đó về sau mấy “điệp viên nghiệp dư ” tuy vẫn theo dõi, nhưng không thấy có điều gì bất thường. Duy chỉ hai ngày sau cái đám cưới đột xuất nhưng bất thành kia, cậu Tư sai thằng Đực đem cho Kim Phụng một món tiền. Cô này buồn vì mộng ước “chia” ông chồng đẹp trai, con nhà giàu học giỏi với mợ Tư Thanh Mây không thành, nên cũng bỏ xứ đi luôn. Sau đó nghe nói cô lấy một ông Tàu già nhưng bộn xu ở Chợ lớn và sanh một thằng con trai đặt tên…Tân. Không biết để nhớ người tình cũ hay để thỉnh thoảng buồn buồn lôi tên Tân ra rủa cho đã tức?! Còn một điều lạ nữa là người nào đi Chợ lớn có gặp cô Phụng và đứa trẻ đều quả quyết rằng thằng cu Tân giống …cậu Tư Tân như khuôn đúc!
Sau lần suýt bị “cưa đôi” ông chồng, mợ Tư không còn dám lơ là như trước. Dù bận rộn công việc nhà hay mõi mệt cách mấy mợ cũng ráng chìu chuộng, ngọt ngào với chồng. Mợ hỏi han tới công chuyện của cậu thường hơn trước. Thấy vợ thay đổi hẳn, săn sóc, âu yếm mình hơn xưa cậu Tư rất cảm động. Nửa tháng trước Tết, cậu nhờ cô em chú bác có tiệm vàng dưới chợ Cao Lãnh kiếm cho cậu cặp bông tai hột xoàn để tặng vợ.
Tối đó, dọn dẹp xong xuôi, mợ Tư vô buồng ngồi trước bàn phấn, xõa mớ tóc mây đen mun ra chải. Cậu Tư vô sau, rón rén tới đứng sau lưng vợ, đưa tay vén mớ tóc, cúi xuống hôn lên cái gáy trắng ngần như ngó sen. Mợ Tư dựa đầu vô ngực chồng, cặp mắt lim dim, cảm thấy niềm hạnh phúc dâng lên rào rạt. Có tiếng cậu thì thầm bên tai:
-Anh có cái này tặng cho mình. Anh đưa trước để tới Tết mình đeo.
Nghe nói vậy mợ Tư mở bừng mắt, ngồi thẳng lên. Trên tay cậu Tư có cái hộp bằng nhung đỏ. Cậu mở nắp hộp, đưa tới trước
mặt vợ. Đôi bông tai nhận hột xoàn chiếu lóng lánh. Mợ Tư cầm cái hộp từ tay chồng mà cảm động đến nghẹn lời. Cặp hột xoàn nhỏ hơn đôi bông hồi xưa bà Hội Đồng Đáng đi cho mợ rất nhiều. Nhưng đây là quà tặng của người chồng mà mợ thương yêu nhứt đời. Nhớ lại hồi đám hỏi rồi đám cưới với cậu Tư, bà Cả cho mợ đồ trang sức toàn bằng vàng y. Bạn bè, chị em trong gia đình ai cũng chê là nhà quê, nhưng mợ đâu có thèm để ý. Miễn mợ lấy được cậu Tân là hạnh phúc rồi. Những thứ khác chỉ là chuyện nhỏ! Bây giờ mợ đã có hột xoàn để chưng diện với chị với em. Có thua gì ai đâu? Hột xoàn lớn nhỏ thì quan trọng gì, miễn cậu mợ yêu thương nhau nồng nàn là đủ.
Mợ Tư đưa cặp mắt ướt rượt nhìn chồng, thỏ thẻ:
-Mình ơi, Tết này em là bà vợ sung sướng nhứt. Em sẽ đeo đôi bông này cho mấy con em xí xọn của em hết chê bai nhún trề. Tụi nó chê em đeo vàng quê quá là quê! Cám ơn mình.
-Cám ơn suông thôi sao? Phải có cái gì cụ thể hơn mới được. Cậu Tư vừa nói vừa mơn trớn bờ vai tròn trịa của vợ.
Mợ Tư đặt cái hộp nhung đỏ lên bàn phấn, quay lại đưa hai cánh tay nuột nà ôm lấy cổ chồng, nũng nịu:
-Mình biết lúc nào em cũng chìu mình mà…Mình thích là em vui rồi.
-Vậy anh tắt đèn à nghe.
Cậu vừa dứt lời thì ngọn đèn ống khói để trên bàn cũng tắt phụt. Trong phòng vẫn còn sáng lờ mờ của ánh trăng mười sáu chiếu qua rèm cửa sổ. Còn mười lăm ngày nữa là Tết, mợ nghĩ thầm. Chưa bao giờ mợ mong cái Tết đến sớm như bữa nay. Cậu Tư nửa dìu nửa ẳm vợ bước lại giường.
Có tiếng mợ Tư cười khúc khích, rồi kêu lên: Mình ơi!!!
TIỂU THU
NOEL 2O02