Tiểu Sử:
Sinh ngày 24-6-1942 tại Hà Nội. Con trai nhà văn Thạch Lam. Vào Nam sau hiệp định Genève. Hoạt động văn nghệ trong các nhóm Thái Độ, Đất Nước.
Các tác phẩm đã xuất bản:
Trang Thơ của văn thi sĩ Nguyễn Tường Giang
Đầu Thu đưa con đi học xa
Đưa con vào trường học
đầu thu chớm mưa bay
lá xanh chưa kịp đỏ
chim non đã xa bầy
Bóng con vừa đi khuất
héo hắt ruột gan này
hoa xuân chưa chớm nụ
lá vàng rụng ai hay
Vợ chồng về nhà cũ
phòng trống nỗi nhớ đầy
tiếng ai ngoài cửa sổ
tưởng con còn đâu đây.
Nguyễn Tường Giang
9-11-90
ÁO ĐỎ NGƯỜI PHƠI TRƯỚC DẬU THƯA
Vườn nhà ai bên cạnh
nở đầy hoa cúc vàng
cây phong trồng trước ngõ
đỏ lửa đón Thu sang
Giữa đất trời cao rộng
một mình ta ngồi đây
chợt nghe ngoài dậu nứa
áo đỏ phất phơ bay
Mẹ hiền giờ đã khuất
ngàn dặm thân lưu đầy
nhớ nhà đôi giòng lệ
biết nói cùng ai đây?
Nguyễn Tường Giang
10-26-1988
Nằm bệnh nhớ lại đời mình
tôi thường ngồi một mình
nhìn ra ngoài cửa sổ
vườn sau
hoa đỗ quyên đã nở
đỏ thắm như vết máu loang
tháng tư
như lưỡi dao chém ngang cần cổ
hàng năm
vết sẹo còn mưng mủ
thương đau
tôi thường ngồi một mình
nhớ về
tuổi thơ
hà nội
54
nhà tôi đầu dốc hàng than
mùa mưa nước chẩy dọc hè đường
những con thuyền bằng giấy
đứa trẻ thả trôi
bồng bềnh sóng nước
biết về đâu
cô bé ngồi bên song cửa
nhìn theo
đôi mắt đen như đôi mắt bồ câu
tôi có bao giờ được nhìn thấy lại
hà nội di cư
tôi thường ngồi một mình
thấy mình không còn trẻ nữa
để viết thư tình
như ngày mới yêu oanh
ngõ nhà nàng cây ngọc lan hoa nở
thơm ngát hương trinh
tôi nhặt một bông hoa đã héo
để tưởng nhớ mùi hương ( TL)
tôi thường ngồi một mình
biết không còn trẻ nữa
xuống đường
phản đối
biểu tình
dây kẽm gai lựu đạn cay ma trắc
hô hào gào thét gậy gộc cầm tay
như một con rô bốt
cô học trò áo quần nhầu nát
dúi vào tay mấy lát vỏ chanh
nước mắt tôi chẩy dài như ngày mẹ chết
mẹ ơi
con lao đầu vào chống đối
vẫn không hiểu vì sao
tôi cũng không còn trẻ nữa
để lang thang trong các trại tù
kà tum long giao suối máu
thanh cầm yên báy lạng sơn
rừng xa lạnh lẽo
lao động héo tàn
đói nhặt từng hạt cơm rơi
trong bùn hay nước mắt
vợ con sống ở nhà lây lất
vẫn đường xa lặn lội thăm chồng
đã chết
vùi nông
tôi không còn trẻ để vượt biên
biển cả mênh mông sóng xô gầm thét
bọn cướp biển như một bầy thú dữ
giết người
cướp của
hãm hiếp
đốt thuyền
có chị có anh có cha có mẹ
bao nhiêu người vùi sâu đáy biển
để tìm đến
tự do
tôi biết tôi không còn trẻ nữa
để làm lại từ đầu
trên đất nước tạm dung
hàng ngày đổ mồ hôi
đêm đêm chập chờn mộng dữ
nhưng đất nước này muôn vàn tươi đẹp
bởi người còn có tấm lòng
như đứa con bất hạnh
được gặp lại mẹ hiền
vết thương cũ sẽ lành
và tương lai không chỉ là hy vọng
tôi có
tự do
thanh bình
dân chủ
có nhà có cửa
có thực phẩm hàng ngày
những đứa trẻ tươi vui đi học
về thế giới hòa bình
nhưng trên màn ảnh truyền hình
người ta vẫn muôn vàn đau khổ
đói khát
chiến tranh
những trẻ con hốc mắt thâm sâu
ruồi bay trên thân xác khẳng khiu
ôm vú mẹ khô như củi đốt
những máu chẩy thịt tan vì bom đạn
những tay chân vương vãi trên đường
bởi vì đâu
chủng tộc
mầu da
niềm tin
tôn giáo
vẫn có người không có trái tim
ác độc
giết hàng triệu đồng bào
cùng mầu da máu thịt
vì tham vọng cá nhân
lịch sử chứng minh
tần thủy hoàng
nê rô
hitler
mao trạch đông
sít ta lin
hồ chí minh
đã chết
và bạo quyền không thắng nổi nhân dân
tôi vẫn ngồi một mình
nhìn ra ngoài cửa sổ
đã bao mùa hoa nở
tuyết rơi
nửa đời người
nhận biết bao ân sủng
sao lòng tôi vẫn hãi hùng run sợ
vì quanh tôi trên thế gian này
còn biết bao loài quỷ dữ
đội tên người
hôm nay
một mình nằm trên giường bệnh
sắp đến ngày nhắm mắt
xuôi tay
tôi nguyện cầu cho nhân loại
qua cơn đại dịch
NGƯỜI LẠI ĐƯỢC LÀM NGƯỜI
mùa dịch cúm covid-19
tháng tư 13-19 năm 2020
Nguyễn Tường Giang
VÔ ĐỀ
![]() |
Lá đổi màu – tranh Đinh Cường 1989 |
những bạn bè đã bỏ đi hết
họ ở đâu họ có gặp nhau
hôm qua thêm một lần rơi lệ
thêm một người đi dưới mộ sầu
họ bỏ đi họ đến cuối đường
con tầu hư ảo của thời gian
bao giờ tôi đến sân ga ấy
đúng đợi trông vời qui cố hương
tôi vẫn mỗi ngày qua từng con phố
lá mùa xuân vẫn xanh, hoa mùa hè vẫn đỏ
những con phố bao nhiêu thân quen cũ
những nóc nhà còn vẳng tiếng xôn xao
tôi vẫn mỗi ngày qua từng con phố
lá thu đã chớm vàng, mùa đông chờ tuyết đổ
những số nhà sao rất thân quen
tiếng hát vẫn còn, bức tranh Đinh Cường vẽ dở
anh Giang ơi sao trời còn bắt tội
một mình tôi ở lại thế gian này…
sáng thức dậy sớm, nhớ đến một người
lake barcroft, 24 tháng tám 2019
nguyễn tường giang
MỘT MÌNH…
Bỗng nhiên tôi nhớ về Hà Nội
bỗng nhiên tôi nhớ phố Hàng Than
bỗng nhiên lòng tôi sầu vô hạn
và một mình, tôi khóc trong đêm
Có những nỗi buồn không nói được
những thì thầm không biết tỏ cùng ai
như buổi sáng nay tôi nhớ về Hà Nội
vì ngoài trời có mưa bụi bay
Bỗng nhiên tôi nhớ về Yên Thế
tuổi thơ tôi giấc mộng đầu đời
những anh bộ đội về trong xóm
và giặc Tây càn quét ngoài rừng
Tôi lớn lên đánh khăng đánh đáo
thả diều bay những cánh đồng rơm
ê a học ngôi đình làng ngói cổ
đêm chôn mìn đầu ngõ đất vùi nông
Bỗng nhiên tôi nhớ đầu mùa hạ
cầu Thị Nghè hai buổi đón đưa Oanh
tóc ngang vai thả bay chiều gió lộng
áo học trò đàn bướm trắng bay ngang
Bỗng nhiên tôi nhớ ngày Mẹ mất
mẹ ơi sao mẹ lại bỏ con
vẫn đứa trẻ thơ ôm vú mẹ
như lời ru vĩnh biệt ngàn năm
Có những nỗi buồn không nói được
những thì thầm không biết tỏ cùng ai
bỗng nhiên tôi hiểu sầu vô hạn
và vì sao tôi thầm khóc trong đêm…
8/23/2019
Fall church, một ngày mưa
Nguyễn Tường Giang
Kính Mời Quý anh chị hội viên đọc các bài viết về
nhà văn Nguyễn Tường Giang của các tác giả khác
“Khói Hồ Bay,” định mệnh khác của Nguyễn Tường Giang
Du Tử Lê
dutule.com (ngày 27-11-2012): Thừa hưởng huyết thống văn chương tài hoa lấp lánh của thân phụ, nhà văn Thạch Lam / Nguyễn Tường Lân, theo tôi nếu Nguyễn Tường Giang không viết văn, làm thơ mới là điều đáng ngạc nhiên và, đáng tiếc.
Bước vào thế giới thơ, văn từ những năm còn là sinh viên Đại học Y Khoa Saigon đầu thập niên (19)60, nhà văn, nhà thơ Nguyễn Tường Giang từng cộng tác với các nhóm văn hóa như Thái Độ, Đất Nước. Ông cũng là một trong những thành viên chủ trương tạp chí Văn Chương, thành lập nhà xuất bản Thạch Ngữ. Ở hải ngoại, Nguyễn Tường Giang đi tiếp con đường chữ, nghĩa thừa hưởng từ thân phụ, qua những sáng tác đăng tải trên các tạp chí như Văn, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21…Nhưng, mãi tới hôm nay, họ Nguyễn mới cho ấn hành tuyển tập thơ, văn đầu tiên “Khói Hồ Bay” ở quê người.
Với gần 400 trang sách khổ lớn, mẫu bìa trang nhã tới mức khiến cho người đọc tự nhiên cảm thấy muốn nâng niu, tựa nếu không, hương khói văn chương họ Nguyễn, có thể bất bình mà bay mất!
Trong lời tựa, trước khi mở vào tác phẩm, nhà văn Phạm Phú Minh ghi nhận một giai đoạn thi ca của Nguyễn Tường Giang như sau:
“Nỗi buồn (trong thơ Nguyễn Tường Giang) tồn tại như một phẩm hạnh của tâm hồn nhà thơ, nó xác nhận một cái gì bất biến nơi ông, trước những biến đổi cực kỳ lớn cho đời ông cũng như cho đất nước Việt Nam. Dù phải hoàn toàn làm lại cuộc đời nơi xứ lạ, phong tục tập quán và văn hóa cuộc sống chung quanh đều thay đổi, nhưng trong thâm tâm ông đã kết tinh một viên ngọc của yêu thương lẫn đau thương, một loại trái tim Trương Chi không bao giờ tan biến. Đó là chỗ đáng yêu và đáng phục nhất của của tâm hồn Nguyễn Tường Giang, nằm ẩn một cách sâu xa và kín đáo trong tâm sự thi ca của ông…”
Trước khi bước vào phần văn xuôi Nguyễn Tường Giang, nhà văn Nguyễn Tường Thiết viết về người em có chung một huyết thống gia tộc với mình như sau:
“Khi chú Sáu của tôi (nhà văn Thạch Lam) qua đời năm 1942 tuổi của Giang lúc ấy vỏn vẹn ba ngày. Khi bác Tam (Nhất Linh) của Giang mất năm 1963 tuổi tôi hai mươi ba.
“Với Giang, Thạch Lam là cái bóng trong tâm tưởng. Với tôi, Nhất Linh là cái hình trong hồi ức.
“Giang mở đầu một bài hồi ký về cha mình bằng một cái chết:
“ ‘Chết là giải thoát một đời. Chết là đầu bên kia của sợi dây ngày tháng. Một sớm kia, một tối nào. Tôi hay anh, cũng thế. Bên kia cái chết là nội cỏ ngàn cây hoa mộng hay bên kia cái chết là thảng thốt khổ đau. Tôi đã nhìn thấy nhiều cái chết, nhiều khuôn mặt chết. Quá nhiều. Nhưng không bao giờ, mãi mãi, tôi có thể hình dung được một cái chết, một khuôn mặt chết thân yêu nhất và buồn bã nhất của đời tôi. Cái chết của cha tôi, Thạch Lam.’ ” (Khói Hồ Bay – Thạch Lam, cha tôi trong trí tưởng).
Nếu những trang thơ của Nguyễn Tường Giang là những cật vấn trực tiếp với cuộc đời, với nhân thế thì, những trang văn của họ Nguyễn lại là những nhát cuốc đào xới quá khứ lao lung. Một qúa khứ lênh đênh, bập bềnh những những mất mát. Thất lạc. Chia tan.
Theo tôi, chúng ta đọc thơ Nguyễn Tường Giang để về gần với những câu hỏi căn bản như con người từ đâu đến? Sống để làm gì? Chết sẽ đi về đâu? Trong khi văn xuôi của Nguyễn Tường Giang lại cho ta về gần (rất gần) kỷ niệm. Kỷ niệm riêng mà chung! Bởi chúng là những nấm mộ. Những nấm một không chỉ trong ký ức. Trong hồi tưởng. Mà, những nấm mộ, hiểu theo một nghĩa nào, cũng chính là nơi chúng ta sẽ tìm về, nằm lại. Vĩnh viễn. Như một lần chúng ta tình cờ bị / được định mệnh dắt tay bước qua ngưỡng cửa đời sống, để ở trong cuộc đời này, dù chỉ khoảnh khắc.
Nhưng, vẫn theo tôi, văn chương Nguyễn Tường Giang, ngược lại. Nó vượt khỏi vạch vấn khoảnh khắc. Nó có cho riêng nó một định mệnh.
Định mệnh, khác.
Du Tử Lê
Khói Hồ Bay
Thơ Văn – Nguyễn Tường Giang
Nguyễn Tường Giang bắt đầu làm thơ vào giữa thập niên 1960. Bài thơ đầu tiên là Căn Phần, viết cho mẹ và các anh chị, khi tác giả 25 tuổi. Thơ ông thể hiện thái độ cùng sự biến chuyển tâm trạng của một người trẻ trí thức miền Nam: ưu tư và hoài bão về đất nước, rồi phẫn nộ và phản chiến.
Ông từng từ bỏ nghề bác sĩ y khoa để tham gia các sinh hoạt văn chương, báo chí.
Trong ba thập niên 1980, 1990 và 2000, trên xứ người, chủ đề chính trong thơ ông là tình bạn. Gần như bài thơ nào cũng là một mảng tâm sự dành cho bạn bè. Dường như “bạn” là những cái “bè” để nhà thơ đặt lên đó mọi nỗi niềm. Từ nỗi nhớ cố hương đến tình yêu, kỷ niệm, hoài bão xưa… những cái bè trôi lênh đênh trong biển tâm thức sâu thẳm mịt mùng nhưng bất biến cùng năm tháng.
Khói Hồ Bay phần văn xuôi gồm 7 đoản văn: ba hồi ký, ba tùy bút và một truyện ngắn : Thạch Lam-Cha Tôi Trong Trí Tưởng, Mộ Bia, Biển Trầm, Những Ngày Lạnh Rớt, Mưa, Thành Phố, Buổi Chiều Đi Chơi Với Thạch Lam.
Như một định mệnh oan khiên, chỉ ba ngày sau khi người con trai út ra đời, Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân) lìa bỏ cuộc đời.
Văn của Nguyễn Tường Giang dường như luôn ẩn khuất một nỗi buồn. Dù tả một cơn mưa, một khung cảnh, một người tình,… thì vẫn lảng vảng đâu đó một nỗi buồn. Và từ nỗi buồn sâu thẳm này, tác giả nhìn vào nội tâm với những câu hỏi về chiến tranh, về tình yêu, về kiếp người, và về chính bản thân.
{Cô gái ngắm con cá với vẻ thích thú – “Anh coi này, con cá bị bắn đúng vào tim!” – Nhưng người đàn ông thấy nhói đau trong ngực, nhìn con vật cong mình tuyệt vọng trên bãi, nơi nó bị tước bỏ mọi sự nương tựa […] Con vật chỉ còn vùng vẫy rất yếu ớt, hình như thoi thóp thở, và chiếc miệng nhỏ rất xinh mở lớn ra, giống hệt một người bị bệnh phổi khi hấp hối.}
Tản mạn với Nguyễn Tường Giang, thời gian…vô tận
“Khói Hồ Bay,” định mệnh khác của Nguyễn Tường Giang.
Văn chương Nguyễn Tường Giang: Trầm tích định mệnh khác
Du Tử Lê
Thừa hưởng huyết thống văn chương tài hoa của thân phụ, nhà văn Thạch Lam/Nguyễn Tường Lân, theo tôi nếu Nguyễn Tường Giang không viết văn, không làm thơ, mới là điều đáng ngạc nhiên. Và, đáng tiếc!
Nhà văn Nguyễn Tường Giang
Bước vào thế giới thơ, văn từ những năm còn là sinh viên Ðại Học Y Khoa Saigon đầu thập niên (19)60, nhà văn, nhà thơ Nguyễn Tường Giang từng cộng tác với các nhóm văn hóa như Thái Ðộ, Ðất Nước. Ông cũng là một trong những thành viên chủ trương tạp chí Văn Chương, thành lập nhà xuất bản Thạch Ngữ. Ở hải ngoại, Nguyễn Tường Giang đi tiếp con đường chữ, nghĩa thừa hưởng từ thân phụ, qua những sáng tác đăng tải trên các tạp chí như Văn, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21… Nhưng, mãi tới hôm nay, họ Nguyễn mới cho ấn hành tuyển tập thơ, văn đầu tiên “Khói Hồ Bay” ở quê người.
Với gần 400 trang sách khổ lớn, mẫu bìa trang nhã tới mức khiến người đọc bỗng cảm thấy muốn nâng niu, phải gượng nhẹ. Tựa nếu không, hương khói văn chương họ Nguyễn, có thể bất bình mà, bay mất!
Trong lời tựa, trước khi mở vào tác phẩm, nhà văn Phạm Phú Minh ghi nhận một giai đoạn thơ của Nguyễn Tường Giang như sau:
“Nỗi buồn (trong thơ Nguyễn Tường Giang) tồn tại như một phẩm hạnh của tâm hồn nhà thơ, nó xác nhận một cái gì bất biến nơi ông, trước những biến đổi cực kỳ lớn cho đời ông cũng như cho đất nước Việt Nam. Dù phải hoàn toàn làm lại cuộc đời nơi xứ lạ, phong tục tập quán và văn hóa cuộc sống chung quanh đều thay đổi, nhưng trong thâm tâm ông đã kết tinh một viên ngọc của yêu thương lẫn đau thương, một loại trái tim Trương Chi không bao giờ tan biến. Ðó là chỗ đáng yêu và đáng phục nhất của của tâm hồn Nguyễn Tường Giang, nằm ẩn một cách sâu xa và kín đáo trong tâm sự thi ca của ông…”
Cũng vậy, trước khi bước vào phần văn xuôi Nguyễn Tường Giang, nhà văn Nguyễn Tường Thiết viết về người em có chung một huyết thống với mình như sau:
“Khi chú Sáu của tôi (nhà văn Thạch Lam) qua đời năm 1942, tuổi của Giang lúc ấy vỏn vẹn ba ngày. Khi bác Tam (Nhất Linh) của Giang mất năm 1963, tuổi tôi hai mươi ba.
“Với Giang, Thạch Lam là cái bóng trong tâm tưởng. Với tôi, Nhất Linh là cái hình trong hồi ức.
“Giang mở đầu một bài hồi ký về cha mình bằng một cái chết:
“‘Chết là giải thoát một đời. Chết là đầu bên kia của sợi dây ngày tháng. Một sớm kia, một tối nào. Tôi hay anh, cũng thế. Bên kia cái chết là nội cỏ ngàn cây hoa mộng hay bên kia cái chết là thảng thốt khổ đau. Tôi đã nhìn thấy nhiều cái chết, nhiều khuôn mặt chết. Quá nhiều. Nhưng không bao giờ, mãi mãi, tôi có thể hình dung được một cái chết, một khuôn mặt chết thân yêu nhất và buồn bã nhất của đời tôi. Cái chết của cha tôi, Thạch Lam.’” (Khói Hồ Bay – Thạch Lam, cha tôi trong trí tưởng).
Cách gì, nhìn từ góc độ nào thì, với tôi, cõi-giới văn chương của họ Nguyễn, vẫn tựa như kẻ ngậm ngùi tự lật những viên gạch một nền nhà xưa cũ, để tìm kiếm kho tàng quá khứ! Với hy vọng dò thấy mạch nguồn dĩ vãng. Một dĩ vãng đau đáu những mơ hồ của tâm cảnh nghiệt ngã hay, bản-án-không-văn-bản. Liên quan tới cái chết của người cha mà, ông gọi là “bản án sát nhân trong tâm hồn”:
“Sự ra đời của tôi, một đứa con trai, là tai họa cho ông. Một người đoán tử vi nào đó, năm 1942, khi mẹ tôi đang mang thai, đã nói nếu sinh con trai người cha sẽ chết. Khi mẹ tôi đi sinh, cha tôi đang đau nặng.Ông đau bệnh gì: bệnh lao vì làm việc và suy nghĩ nhiều. Ý chí muốn dứt bỏ cái thú phù dung, hay tại số. Tôi không thể định rõ được. Lúc người nhà về báo với ông đứa trẻ mới sinh ra là con trai, ông không nói gì, lặng lẽ coi tiếp tờ báo đang xem dở. Ba ngày sau, ngày 27 tháng 6, 1942, Thạch Lam mất. Sinh ra đời, buồn thay, nhiều khi đã mang bản án sát nhân trong tâm hồn.” (“Khói Hồ Bay,” trang 298)
Ðó là một trong rất nhiều đoản văn như những chiếc máy khoan đất đá, có khả năng dò tìm đáy tầng dĩ vãng. Nói cách khác, tôi nghĩ, họ Nguyễn đã tìm được kho-tàng-nguồn-cội, khi ông cắt ruột, xẻ gan lật những viên gạch nền nhà quá khứ của tâm cảnh ông.
Những tìm và thấy của Nguyễn Tường Giang (qua văn chương,) với tôi là những mạch ngầm định mệnh một đời người. Chúng ở đó. Vĩnh viễn. Chúng không hề là những sợi khói, để hy vọng tan biến, một ngày nào. Nỗi buồn như những thương tích thân tâm của họ Nguyễn cũng chấp chới ở nhiều độ sâu khác nhau. Mỗi độ sâu trong tâm cảnh đào xới, họ Nguyễn lại tìm và thấy những trầm tích khác nhau.
Bắt gặp kia, khi là trầm tích của nỗi buồn thiếu mẹ:
“Mẹ hiền giờ đã khuất
ngàn dậm thân lưu đầy
nhớ nhà đôi dòng lệ
biết nói cùng ai đây?” (1)
Lúc khác, lại là trầm tích của tình bằng hữu – Một thứ tình cảm trải dài lênh đênh, cùng khắp, không chỉ trong văn xuôi mà, còn nồng nàn trong thơ cũ cũng như mới của ông nữa:
“Lâu ngày không gặp bạn
được tin bạn đi rồi
hàng phong như lửa đỏ
sáng rực một góc trời
“Tần ngần về đường cũ
nhặt một lá phong rơi
hàng phong thiếu một lá
cũng buồn như ta thôi.” (2)
Nhưng, nếu những trang thơ của Nguyễn Tường Giang là những cật vấn trực tiếp với cuộc đời, nhân thế thì, những trang văn của họ Nguyễn lại là những nhát cuốc đào sâu, xới tơi cả một quá khứ lao lung, phủ kín ngậm ngùi. Tôi gọi đó là loại quá khứ bập bềnh những oan khiên. Trập trùng những mất mát. Nhức nhối những chia tan.
Chúng ta đọc thơ Nguyễn Tường Giang để về gần với những câu hỏi căn bản như con người từ đâu đến? Sống để làm gì? Chết sẽ đi về đâu? Trong khi văn xuôi của Nguyễn Tường Giang lại cho ta về gần (rất gần) kỷ niệm. Kỷ niệm riêng mà chung! Vì chúng là những nấm mộ. Những nấm mộ không chỉ trong ký ức. Trong hồi tưởng. Mà, những nấm mộ, hiểu theo một nghĩa nào, cũng chính là nơi chúng ta sẽ tìm về, nằm lại. Vĩnh viễn. Như một lần chúng ta tình cờ bị/được định mệnh dắt tay bước qua ngưỡng cửa đời sống, để có mặt trong cuộc đời này. Dù chỉ khoảnh khắc.
Nhưng, khoảnh khắc một đời người, theo tôi, không hề là vạch phấn giới hạn sức sống của văn chương Nguyễn Tường Giang. Tôi nghĩ, nhiều phần, ngược lại.
Tôi tin, văn chương họ Nguyễn sẽ vượt khỏi vạch vấn khoảnh khắc. Bởi tự thân, nó vốn có cho riêng nó một định mệnh.
Ðịnh mệnh của những trầm tích khác.
Du Tử Lê
(Calif. 9 tháng 12, 2012)
Thạch Lam và gien trội
Một thời gian dài, văn chương Tự lực văn đoàn không được đưa vào giảng dạy trong nhà trường nhưng truyện ngắn Thạch Lam (1910-1942) là ngoại lệ. Nhiều thế hệ học sinh cả hai miền Nam – Bắc ai cũng biết đến Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan… của Thạch Lam. Tên ông cũng được nhiều địa phương chọn đặt tên đường, như TP HCM (quận Tân Phú), TP Đà Nẵng (quận Sơn Trà), tỉnh Hải Dương (huyện Cẩm Giàng)…
Con người thành thực
Hơn 70 năm kể từ khi Thạch Lam qua đời, không mấy ai chê văn Thạch Lam. Người khó tính về việc chọn chữ, đặt câu như Nguyễn Tuân vậy mà trong một bài viết hồi tháng 10-1957 cũng không ngần ngại hạ bút: “Bằng sáng tác văn học, Thạch Lam đã làm cho tiếng nói Việt Nam gọn nhẹ đi, co duỗi thêm, mềm mại ra và tươi đậm hơn. Thạch Lam có đem sinh sắc vào tiếng ta” (Nguyễn Tuân, Tuyển tập Nguyễn Tuân, T.2, NXB Văn học, H, 1982). Theo GS Hà Minh Đức, “văn của Thạch Lam ít bị cũ đi với thời gian vì hai yếu tố cơ bản. Trước hết, về phía chủ quan đó là con người thành thực, thành thực với bản thân và với cuộc sống.
Chính vì thế trên trang viết không có những ý tưởng, lối thể hiện cầu kỳ kiểu cách, giả tạo, mơ hồ. Về phía khách quan, cuộc sống trên dòng chảy đời thường luôn hỗ trợ cho văn chương không xa lạ, lạc điệu” (Hà Minh Đức, Tự lực văn đoàn, Trào lưu – tác giả, NXB Giáo dục, H, 2007). GS Phong Lê cũng cho rằng: “Ở giá trị hiện thực trên một số cảnh đời; ở tình thương và lòng trân trọng người nghèo; ở ý vị và màu sắc dân tộc mà Thạch Lam luôn luôn có ý thức nâng niu, gìn giữ; ở những đóng góp cho câu văn xuôi tiếng Việt giữ được vẻ đẹp riêng tươi đậm và lâu bền của nó…, phần văn phẩm Thạch Lam để lại cho chúng ta hôm nay mang một giá trị khó ai có thể phủ định” (Phong Lê, Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, H, 1998)…
Nhưng con cái Thạch Lam có ai hưởng được chút gien này không? Đó là câu hỏi mà nhiều người đặt ra.

Từ trái qua: Nguyễn Tường Việt (con trai đầu của Nhất Linh), Nguyễn Thị Kim Dung, Nguyễn Tường Giang và Vu Gia.
Ảnh: Nguyễn Tường Đằng
Nghỉ nghề bác sĩ để làm thơ
Qua bài Thạch Lam, Cha tôi trong trí tưởng (Báo Văn Nghệ – Hội Nhà văn Việt Nam, ngày 28-7-1990), tôi biết anh là bác sĩ, sinh ngày 24-6-1942, vì nhiều tư liệu để lại cho biết lúc Thạch Lam bệnh, vợ ông đang mang thai đứa con thứ ba; người mẹ đi xem tử vi, thầy cho biết nếu sinh con trai thì không sống được. Và Nguyễn Tường Giang ra đời đúng ba ngày thì Thạch Lam qua đời. Đọc bài này, tôi cũng rưng rưng nước mắt: “Cái chết của cha tôi, Thạch Lam. Mẹ tôi cũng đã kể cho tôi, bà tôi cũng đôi lần nhắc lại. Một vài đoạn văn đã viết. Nhưng nói hay nghĩ tỉ mỉ về cái chết của ông, tôi không thể không đau đớn trong lòng. Sự ra đời của tôi, một đứa con trai, là tai họa cho ông (…) Ba ngày sau, ngày 27-6-1942, Thạch Lam mất. Sinh ra đời, buồn thay, nhiều khi đã mang một bản án sát nhân trong hồn”.
Vừa rồi, có dịp sang Mỹ, tôi đến làm việc với Đại học Quốc gia Mỹ (ANU). Nhà Nguyễn Tường Giang cũng gần đó nên anh em có gặp nhau. Trưa hôm sau, anh đưa tôi về nhà người chị đầu của anh (Nguyễn Thị Kim Dung, sinh năm 1936) dùng cơm trưa. Ở đây, tôi gặp anh Nguyễn Tường Đằng (sinh năm 1939), anh kế của anh. Đủ mặt 3 người con của Thạch Lam. Bây giờ, con cái của ai cũng đều phương trưởng, nhà cửa ổn định. Thế là mừng!
Anh có 4 người con, hễ tốt nghiệp đại học là anh cho về Hà Nội, đăng ký học một khóa tiếng Việt. Theo anh, cháu nội nhà văn Thạch Lam mà viết câu tiếng Việt không thành thì coi sao được! Khi đứa con gái út lập gia đình, anh tuyên bố giải nghệ, dành thời gian đi chơi và làm thơ.
Con nhà tông…
Tôi nói hồi trước 1975, tôi có đọc và thích một số bài thơ của Nguyễn Tường Giang, như: “Mẹ ơi/ Năm nay con 25 tuổi/ Lưu lạc vào Nam con đã nên người/ Mẹ đã già rồi lưng còng tóc bạc/ Con ở Đô thành nào được ngày vui/ Này những súng bom người ta mang tới/ Phá ruộng phá đồng nhà cháy tan hoang/ Bao đứa trẻ thơ như con thuở trước/ Lại áo vá vai bụng đói lang thang/ Mẹ vẫn hằng ngày bữa cơm bữa cháo/ Đổ giọt mồ hôi lấm bụi phố phường… Vậy Nguyễn Tường Giang ấy là anh hay người khác?
Anh cười nói về phần đời thầy thuốc của mình. Tôi hơi tiếc cái nguồn gien văn chương nhà Nguyễn Tường, nhất là Thạch Lam, không tồn tại ở lớp hậu duệ, bởi anh Đằng và các cháu nội, ngoại của Thạch Lam đều nghiêng về khoa học kỹ thuật. Bây giờ, Nguyễn Tường Giang mới tuyên bố… làm thơ thì cũng giống như các cụ hưu trí ở xứ ta thôi.
Sân sau nhà anh khá rộng, ven hồ. Trong lúc tôi ngồi ngắm sóng gợn lăn tăn thì anh vào nhà mang ra biếu tôi tập thơ đầy đặn: Khói hồ bay. Anh nói:
“Mấy câu thơ anh nhớ, nằm ở phần thơ trước 1975”. Thì ra, thơ Nguyễn Tường Giang ở miền Nam trước 1975 là của anh. Anh có thơ đăng báo từ hồi trung học (1959) và vui là chính chứ không phải muốn trở thành nhà thơ. Đêm đó, tôi đọc hết cuốn Khói hồ bay và thấy gien văn chương của Thạch Lam không những không mất mà còn là gien trội. Những bài thơ anh viết sau này khá hay: Vẫn những cánh đồng khô/ Những đụn rơm, mái rạ/ Con trâu cày bên bờ ruộng vỡ/ Mưa lác đác bay trên phố Cẩm Giàng/ Tre xanh, đất bụi, quán xiêu đổ/ (…) Chiều nhạt nhòa bóng nắng/ Tôi đứng ở sân ga/ Người xuống, không có ai quen mặt/ Cẩm Giàng chỉ còn là tên gọi/ Rất xưa/ Tôi bật khóc/ Nhớ nhà (Khi ghé thăm Cẩm Giàng); hoặc bài Gọi về, nghe rất thương: Đời người như một vòng cung lớn/ Cuối đường lại thấy bến bờ xưa/ Thuyền trôi, chiều xuống, nhà xa lắm/ Vọng trên sông tiếng mẹ gọi về.
“Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Ông bà mình nói chẳng sai.
Nguyễn Tường Giang, tốt nghiệp Trường Đại học Y khoa Sài Gòn năm1968. Ra trường, anh làm việc tại các bệnh viện Từ Dũ, Hùng Vương. Qua Mỹ, anh hành nghề tư, tham gia giảng dạy chuyên môn (sản phụ khoa) tại Southside Hospital, Bay Shore, New York rồi tại Virginia Hospital Center, tại Arlington, Virginia. Về hưu năm 2010.
Vu Gia
CÁI ẤM ĐẤT VÀ BỘ CHÉN TRÀ NGUYỄN TUÂN TẶNG THẠCH LAM
Tác giả: Nguyễn Tường Giang
Trời mới vừa hửng sáng, đám sương mù dầy đặc từ đêm hôm trước như có linh hồn của một người yêu công việc thấy được ánh sáng đầu ngày đã vội vàng tản mát trên mặt nước Hồ Tây, như những người thợ cần mẫn vội vã đến nơi làm việc. Phía trong làng hoa Yên Phụ, những người trồng hoa đã bắt đầu gánh sản phẩm của những ngày lao động vội vã đi về phía đê Yên Phụ rồi tản mát đến các khu họp chợ để phân phát hương thơm và mầu sắc cho những thiếu nữ mộng mơ. Trên đê Yên Phụ lúc đó, người phu xe cũng vừa ngừng chạy, đặt hai cái càng xe xuống mặt đường. Một người đàn ông tầm thước mặc đồ âu tây trắng, đội mũ phớt trắng chậm rãi bước khỏi xe. Ông cẩn thận ôm trên tay một cái bọc vải mầu nâu gụ, dặn dò thời gian người phu xe trở lại đón rồi thong thả đi xuống đê, rẽ vào con đường làng nhỏ ngược chiều với những gánh hoa đủ mầu sắc. Qua cái đình có vẽ hình một con hổ vàng vằn đen, phía trước đình là một cái ao dài và nhỏ còn vương lại mấy lá sen tàn, ông nhẹ nhàng đẩy cánh cổng gỗ của căn nhà đầu tiên trên đường. Đó là một căn nhà tranh vách đất nằm bên cạnh Hồ Tây, một bụi tre khẽ lay động trước nhà và ông nhìn thấy phía bên nhà ngó ra hồ những cành liễu rũ xuống lấp lánh lá còn ướt sương. Ông đứng trước cửa nhà bằng tre, khẽ gọi: chị Lân, chị Lân. Cánh cửa hé mở, một người đàn bà nhỏ nhắn vấn tóc trần thò đầu ra: à anh Tuân, anh đến chơi sớm. Nhà tôi đang ở phòng viết, mời anh vào chơi. Người đàn ông bước vào nhà, để cái bọc vải trên mặt bàn bằng gỗ, cũng vừa lúc đó chủ nhân ở căn phòng nhỏ bước ra. Chủ nhân người gầy, cao, nét mặt thanh tú, đôi mắt sâu và lông mày rậm. Hai người bắt tay nhau: anh ngồi chơi, lâu không thấy anh tới tưởng anh lại đi giang hồ đâu xa. Hai người ngồi xuống hai chiếc ghế mây ở hai đầu bàn, người khách mở gói vải bầy ra mặt bàn một bộ đồ trà và một hộp trà nhỏ: xin chị cho một ấm nước sôi. Chủ nhà tò mò ngắm nghía bộ đồ trà: một cái ấm trà mầu đỏ chu sa, một cái đĩa bàn lòng chảo bằng sứ men trắng dưới lòng đĩa có vẽ hình những con kỳ lân với những cái đuôi dài quấn vào nhau, tựa như một tấm bản đồ cổ. Một cái chén tống và một chén quân có cùng một họa hình như cái đĩa bàn, còn một chén quân khác vẽ cảnh bốn người ngồi trong thuyền ngoạn cảnh bên bờ nước có những tảng đá lớn có một cái cây nhỏ vươn ra. Trên thành chén quân này có bẩy chữ Tầu, ắt hẳn là một câu thơ. Chủ nhân cười hỏi: không biết đây có phải là bộ đồ trà trong “những cái ấm đất” và “chén trà trong sương sớm” chăng. Tôi nào có nghi ngờ những điều anh viết đâu. Khách biết là chủ nhân chỉ hỏi đùa, ông vẫn cảm cái ơn tri ngộ của một người bạn văn cùng nòi tình khi viết những lời phê bình cảm động cuốn truyện ngắn ông mới in. Tôi cũng có việc sắp phải đi xa nên đến cùng anh uống vài chén trà từ biệt. Cũng xin để tặng anh bộ đồ trà của gia đình. Khi nào anh uống trà sẽ nhớ đến Nguyễn này. Một cái hỏa lò đã được mang lên cùng một cái ấm đồng, than trong hỏa lò đã đỏ lửa, bọt than nổ tí tách. Khách mở hộp trà Thiết Quan Âm mới tìm mua được hôm qua rồi khéo léo và từ tốn pha trà. Hai người im lặng thưởng thức trà rồi nhẹ nhàng nói những chuyện văn chương chữ nghĩa. Họ có nhiều chuyện để nói với nhau bởi đó là hai nhà văn cùng tuổi, cùng thời, cùng nổi tiếng vì những bài viết sâu sắc và tinh tế về nghệ thuật ẩm thực và những thú vui tao nhã xưa và nay. Cả hai cùng mới dứt bỏ được ả phù dung, một người vừa in Ngọn Đèn Dầu Lạc, người kia đã có trong tay bản thảo Mười Năm Đèn Lửa. Phải chăng họ là Bá Nha Tử Kỳ của Văn Chương.
Tôi vẫn thường tưởng tượng một cảnh gặp gỡ như vậy giữa Nguyễn Tuân và Thạch Lam. Mẹ tôi khi còn sống không bao giờ (và có lẽ cũng vì tôi không hỏi) nói về cái buổi Nguyễn Tuân đến nhà tặng Thạch Lam một bộ đồ trà. Chỉ có lần thấy mẹ tôi bầy cái ấm trà và cái đĩa có ba chén trà men trắng vẽ hình lam xanh trên bàn thờ vào một ngày giỗ Thạch Lam, bà nói với chúng tôi: cái ấm trà và mấy chén trà này do nhà văn Nguyễn Tuân tặng cậu, hồi còn sống cậu quý lắm. Tôi nhớ đó là những ngày chúng tôi đã vào ở trong Nam và tôi mới chập chững ở ngưỡng cửa trung học, mới bắt đầu lạc lõng vào thế giới văn chương tiền chiến, biết đôi điều về Thạch Lam và Tự Lực Văn Đoàn. Tôi vẫn chưa bao giờ tự hỏi và tìm hiểu bộ đồ trà này lưu lạc ở đâu, từ ngày Thạch Lam mất đi, ngày 27 tháng sáu năm 1942, ba ngày sau khi tôi ra đời. Sau khi cha tôi mất, mẹ tôi chỉ nán ở lại căn nhà cây liễu cạnh Hồ Tây đôi ba tháng, bà tôi vì thấy cảnh nheo nhóc của ba đứa cháu nội, cho người đón chúng tôi về trại Cẩm Giàng và giao cho mẹ tôi làm quản gia cho trại. Ở đây ba chị em chúng tôi đã sống những ngày tháng êm đềm cho tới khi phong trào toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Lúc đó bà nội tôi đã xuất gia, khi ở chùa, khi về thăm trại. Khi phong trào tiêu thổ kháng chiến được phát động, gia đình tôi đã theo đoàn người tản cư chạy ngược lên miền bắc, dần dà đến trú ngụ ở một làng nhỏ và rất nghèo vùng Nhã Nam, Yên Thế. Trong những ngày đầu của cuộc tản cư gia đình tôi được cho ở tạm trong một căn buồng nhỏ, gần gian chứa thóc của một gia đình miền quê tốt bụng. Theo lời chị tôi kể, một hôm mẹ tôi trở lại Cẩm Giàng để xem xét tình hình, khi trở về thì căn buồng chúng tôi tạm trú đã bị cháy hết, những di tích kỷ niệm của gia đình như hình ảnh, sách vở và những trang bản thảo của Thạch Lam đều tan thành tro bụi. Gia đình chúng tôi đã sống hơn ba năm ở cái làng Đìa heo hút, tôi nhớ là cả gia đình chui rúc trong một căn lều nhỏ, là nơi chủ nhà ngày trước dùng để cất những dụng cụ nhà nông. Căn lều mái tranh vách đất, cửa liếp lỏng lẻo, những ngày mưa mái nhà bị dột và tôi hay ngồi nhìn những bong bóng do nước trên mái gianh nhỏ xuống cái rãnh ngoài cửa liếp. Tôi không nghĩ lúc đó mẹ tôi mang theo bộ đồ trà mỏng manh dễ vỡ, mặc dù mẹ tôi vẫn có một cái tay nải mầu nâu nhưng tôi chưa bao giờ mở ra xem trộm. Tôi tự hỏi nếu mẹ tôi có bộ đồ trà quý giá đó, bà có chịu bán đi cho một người giầu có trong làng để qua cơn nghèo túng, bữa đói bữa no, cơm ăn trộn khoai trộn sắn của chúng tôi hay không. Cho đến khi bà nội tôi dò hỏi và tìm được gia đình tôi, khi theo người dẫn đường trở về Hải Phòng, ngày nghỉ đêm đi, tôi còn nhớ có những đêm nấp trong bãi tha ma thấy những viên đạn lửa như ma trơi bay ngang dọc trên đầu. Ở Hải Phòng rồi dọn về Hà Nội cho tới khi di cư vào Nam, gia đình tôi thay đổi chỗ ở ít nhất cũng bốn năm lần, lần nào cũng chỉ sống trong một căn buồng bé cỏn con, tôi chưa một lần nhìn thấy bộ đồ trà.
Cái ấm trà và những cái chén trà, trong khoảng thời gian dài hơn một giáp tuổi đã lưu lạc ở đâu. Những người có thể soi sáng vào cái phần đời còn u tối của chúng giờ đây đã không còn nữa, những thắc mắc, tìm tòi về những kỷ niệm, biến cố liên quan đến một con người bao giờ cũng được nhớ tới một cách muộn màng. Phải chăng khi mẹ con chúng tôi dời bỏ trại Cẩm Giàng với những ngày tháng êm đềm, bà nội tôi, người đã bỏ bao nhiêu công lao tạo dựng một nơi chốn để con cháu có những ngày tụ họp, nghỉ ngơi, đã trở về để nhìn thấy căn nhà thân yêu một lần chót, đã vội vã thu vén những kỷ vật của gia đình, bà đã nhìn thấy bộ đồ trà của đứa con bà yêu thương nhất nhưng mệnh yểu, bà đã bỏ những di vật đó trong cái tay nải nâu sòng của một người xuất gia. Từ đó, bộ đồ trà của một thời dĩ vãng đã lách cách đi theo bà nội tôi, ẩn náu dưới những mái chùa Đào Xuyên, Bối Khê vùng Hưng Yên để trốn tránh bộ đội Việt Minh đang tìm dấu vết gia đình Nguyễn Tường Tam, rồi về Thành yên ổn trong ngôi chùa Hai Bà Trưng phường Đồng Nhân, Hà Nội, nơi tôi đã được ăn oản ăn chuối cúng Phật hơn hai tháng trời, vì cái mạng cao số phải nương nhờ cửa Phật để người thân được độ trì, rồi cùng theo đoàn người di cư vĩ đại vào miền Nam. Bà tôi lúc tạm trú ở chùa Văn Thánh Thị Nghè, chỉ cách nơi gia đình tôi trú ngụ có một cái cầu rất ngắn, và cũng có lẽ đó là lúc bộ đồ trà được giao lại cho mẹ tôi, để cái linh hồn của Thạch Lam mỗi lần giỗ tết, sống lại cái quá khứ ở Hồ Tây.
Tôi thừa hưởng cái ấm trà và bộ chén trà từ ngày mẹ tôi mất. Hàng năm anh tôi vẫn làm giỗ Thạch Lam và nhiều năm chúng tôi cũng không quên để bộ đồ trà trên bàn cúng. Chúng tôi vẫn coi ngày giỗ là ngày tụ họp trong gia đình và họ hàng thân quen, và sự gặp gỡ bây giờ lại là ngày chúng tôi nhắc nhở nhiều đến mẹ chúng tôi hơn là Thạch Lam. Chúng tôi hay nhắc nhở tới những thức ăn cúng bà sửa soạn một cách chu đáo và ngậm ngùi, như bà đang sửa soạn bữa ăn hàng ngày cho Thạch Lam và không bao giờ bà quên mua một bó hoa cẩm chướng để tưởng nhớ người xưa. Chúng tôi cũng không quên rót đầy hai chén trà để lên bàn cúng và cái ấm trà hiện diện như một phần đời của Thạch Lam. Tại sao tôi lại được giữ bộ đồ trà, có lẽ là khi mẹ tôi mất đi, anh tôi vẫn còn độc thân và vợ tôi đã sinh cho bà ba đứa cháu nội. Tôi có đôi lần mang cái ấm trà ra ngắm nghía, nhất là sau khi đã đọc khá nhiều lần cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân. Khi đọc đến đoạn văn: “Cái ấm của cụ quý lắm đấy. Thực là ấm Thế Đức mầu gan gà. Thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần. Cái Thế Đức của cụ, cao nhiều lắm rồi. Cái Mạnh Thần song ẩm của tôi ở nhà, mới dùng nên cũng chưa có cao mấy”, tôi cũng tò mò nhìn vào lòng cái ấm đất xem có mấy lớp cao và cũng có lần úp ấm trà xuống bìa một cuốn sách để xem miệng vòi với quai và gờ miệng ấm có cắn sát vào mặt bằng của bìa sách hay không, và đôi lần cầu kỳ hơn, thả cái ấm trà vào chậu nước xem có nổi đều, cân nhau không triềng như Nguyễn Tuân đã mô tả trong truyện “Những Chiếc Ấm Đất”. Vào khoảng năm 1974, tôi nhờ một người bạn thông chữ Hán đọc dùm hai cái triện chữ Tầu ở trôn chiếc ấm và sung sướng như bắt được vàng khi biết đó đúng là cái ấm trà hiệu Thế Đức. Một người sưu tầm đồ cổ đến xem cái ấm trà và cái đĩa cùng ba cái chén uống trà, đã trả giá bằng số lương hai tháng làm việc của tôi như một bác sĩ trong nhà thương, nhưng một vật kỷ niệm trong gia đình, lại là một cổ vật đã được đưa vào văn chương, tôi sao đành lòng rời xa.
Tôi bây giờ đã trên tuổi bẩy mươi, cái tuổi cổ lai hi, mới ngẫm nghĩ rằng mọi việc trên đời, từ sống chết, danh phận, giầu nghèo đến tình nghĩa vợ chồng, cha con, bằng hữu, đều có thể buộc vào chữ nghiệp, chữ duyên. Bộ đồ trà đối với tôi, nếu có linh hồn, hẳn phải nợ nần nhau lắm. Cuộc tao loạn nước mất nhà tan năm 1975, gia đình tôi vì may mắn đã di tản trong những ngày cuối cùng của chiến tranh, nhưng ra đi với hai bàn tay không đã là một ân sủng của đất, trời. Những năm tháng đầu tiên trên xứ người, phải bắt đầu lại bằng những bước tập tễnh trong đời sống, dĩ nhiên tôi không bao giờ bận tâm đến bộ đồ trà. Chỉ trong một tích tắc đồng hồ quyết định, những của cải vật chất, những sách vở quý giá còn phải bỏ lại huống chi những vật mong manh như một bộ đồ trà. Sách báo tôi in, bản thảo của nhiều truyện ngắn chưa đăng báo, giấc mơ văn chương tôi hằng ấp ủ, bây giờ đều tan như bọt nước. Cái gánh nặng gia đình trước mặt đã giữ chặt đôi chân tôi trên mặt đất, xích vào cái thực tế của một đời người. Không định trước, một người chị họ đã sống lâu trên đất Pháp cùng người bạn trai cho biết sẽ đến thăm tôi, sau khi ghé qua Hoa Thịnh Đốn. Lúc đó gia đình tôi đang cư ngụ ở một tỉnh nhỏ vùng tây nam tiểu bang Nữu Ước trong cảnh giúp đỡ của họ đạo Tin Lành, và cũng trên đường người chị muốn đến thăm thác Niagara. Một sự ngạc nhiên không bao giờ tôi có thể nghĩ tới, là trong những tặng vật chị mang đến cho tôi lại có bộ đồ trà, cái ấm trà và bộ chén trà tôi đã quên bẵng đi như đã quên những vật thân yêu khác. Qua những thư từ liên lạc, hồi đó còn rất khó khăn, với anh tôi và với gia đình bên ngoại, không thấy ai nhắc nhở tới bộ đồ trà tôi đã bỏ lại trong nhà. Có thể nào trong những ngày tháng hốt hoảng của một thành phố không có tương lai, mẹ vợ tôi đã mang về những đồ đạc, sách vở tôi để lại và trong khi phải đốt hoặc bán chợ trời những cuốn sách chuyên môn hay văn nghệ, những dụng cụ y khoa, bà đã vì một lý do nào đó giữ lại bộ đồ trà di vật của gia đình tôi để trao lại cho anh tôi. Trong những ngày vật đổi sao dời, bị tước đi tất cả những công lao vun xới cùng tự do và nhân phẩm của một con người, bà chị dâu đã phải bươn chải bán dần những tài sản ngoài chợ trời để lo cho lũ con mọn và người chồng trong trại học tập, bộ đồ trà vẫn bám lấy gia đình chúng tôi, như một phần thân thuộc của Thạch Lam. Có thể trong hoàn cảnh của một tương lai mờ mịt, không có hy vọng gì về một cuộc sum họp, người chị dâu tôi đã gói ghém bộ đồ trà kỷ niệm trong gia đình, chuyển đi qua một đại dương cách trở, cái ranh giới giữa kìm kẹp và tự do, như một lời trăn trối. Bộ đồ trà phải lìa bỏ quê hương ấy chắc cũng có lúc đau lòng, trong khi phải lưu lạc nửa vòng trái đất từ Sài Gòn qua Ba Lê đến Hoa Thịnh Đốn, rồi dừng lại ở một tỉnh nhỏ heo hút chỉ có dăm ba người đồng hương, cái đĩa bàn đựng chén trà, như một người mẹ muốn che chở mấy đứa con, đã vỡ đi một góc. Tôi nhìn những mảnh sứ vụn rời rạc của chiếc đĩa, đau như có ai cắt vào tay. Vợ chồng tôi đi tìm mua năm bẩy loại keo dán đồ sứ, loay hoay cả nửa ngày trời để gắn lại những mảnh vỡ và nghĩ rằng đã có bao nhiêu sự đổ vỡ trong đời không có gì hàn gắn được.
Cái ấm đất và bộ chén trà từ đó lại lẽo đẽo theo tôi hơn một nửa đời người. Hơn một nửa đời người của tôi đã dành cho một nơi cư trú không phải là đất nước quê hương, và cái chênh của ngày tháng dễ đến năm mười năm lại ngả về phần đất này. Trong cái khoảng thời gian đếm dài trên con số nhưng lại rất ngắn trong phần linh hồn, tôi đã phải dời nơi ăn ở ít nhất cũng nhiều hơn những ngón trên một bàn tay, bộ đồ trà đã có lúc được gói trong những mảnh vải xé, trong giấy nhật trình hay được bầy trong tủ kính ở phòng ăn phòng khách. Tuyệt nhiên, nếu tôi nhớ không lầm, chưa có lần nào tôi dám mang ra hầu tiếp bạn bè hoặc pha một ấm trà uống một mình. Có một cái gì thiêng liêng đâu đó, như âm hồn bao nhiêu người xưa cũ còn quẩn quanh đã khiến tôi biến một vật gia dụng thành một món đồ thờ. Vả chăng, giữa những tháng ngày vật lộn vì mưu sinh ở xứ người, bạn bè cũ mới, mấy ai có thể nhàn rỗi ngồi nhâm nhi chút hương thơm của trà, bàn chuyện lễ nghĩa ở nơi mà người ta có thể biến thời gian thành hiện kim. Cũng có một khoảng thời gian khá dài, sau khi đã quân bình được cuộc sống, tôi cũng sa đà vào những cái vụn vặt của thú uống trà. Tôi cũng đi tìm mua những ấm trà được tạo dáng khác nhau, những ấm trà có khắc rồng khắc phượng thay đổi mầu sắc khi chất nước sôi thấm vào cái phần da thịt của ấm, tôi cũng la cà ở các trà thất khi du lịch ở Trung Hoa để cố tìm những hương vị trong trí tưởng và khi đến Hàng Châu, thủ phủ trà, tôi đã dám tiêu pha mua mấy lượng Ngự Trà, nếu so sánh theo cân lượng, chắc cũng xấp xỉ với giá vàng cùng thời. Nhưng không có gì bằng là có một người bạn được gọi là tri kỷ để có thể cùng ngồi thưởng thức một ấm trà nhỏ trong một ngày tuyết rơi, thì hỡi ơi, không lẽ tôi lại là cái người tri kỷ của chính tôi. Cái ấm trà và bộ chén trà trong những năm gần đây, thật sự tôi cũng không biết đã ẩn nấp ở đâu trong nhà. Cái tủ kính để trưng bầy mấy bức tượng quý bằng thạch cao, đồ trang trí pha lê và những ấm trà tôi sưu tập, vợ tôi đã đem cho người con gái mới mua nhà. Vợ tôi, như mọi người phụ nữ đảm đang khác, có cái tài tình là cất giữ những món đồ quý giá ở những nơi mà không sao tìm ra được. Cũng đã khá lâu, kể từ khi cứ năm bẩy tháng lại nghe tin một người bạn cũ hay một người trạc tuổi mình lặng lẽ ra đi, ở cái tuổi mà mỗi buổi sáng thức dậy đã là một hạnh phúc cuộc sống tặng cho riêng mình, tôi đã có lần tụ họp bốn đứa con để bàn về cái sự chia phần những hiện vật còn lại ở trong nhà, dăm ba cái đồng hồ cũ có tên hiệu, mấy thùng rượu vang của các vùng sản xuất danh tiếng, năm mười bức tranh của một số họa sĩ Việt Nam còn sống hay đã chết, các bức tượng bằng sứ hay thạch cao… Riêng có bộ sưu tập những phác họa của Nguyễn Gia Trí và bộ đồ trà của Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam, tôi luôn luôn muốn giữ lại để góp một phần nhỏ trong những di vật cho một viện bảo tàng hay nhà lưu niệm Tự Lực Văn Đoàn, khi các cơ sở này được thành lập và quản trị bởi những người yêu văn hóa nghệ thuật và có thiện tâm.
Tôi sẽ không có cơ hội cặm cụi viết những dòng chữ về cái ấm đất và bộ chén trà của Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam để có dịp nhìn lại và tìm hiểu về món kỷ vật đã có cái duyên theo tôi trên một nửa thế kỷ, nếu cách đây khoảng một tháng Nguyễn Tường Thiết, người anh họ tôi, đã không gọi tôi hỏi han về bộ đồ trà này. Thiết nói với tôi: cái ấm đất Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam là một chuyện thú vị lắm chứ, sao ông không viết vài hàng về nó. Thiết cho tôi biết lần đến thăm tôi cách đây hơn nửa năm, chủ yếu để nhìn tận mắt cái ấm đất mà Nguyễn Tuân đã tỉ mỉ tả trong truyện ngắn của ông, nhưng lại vì những chuyện đâu đâu quên đi không hỏi tới. Đối với tôi, cái ấm đất và bộ chén trà nhiều khi không còn hiện diện, mà chỉ là những kỷ niệm liên hệ đến cha tôi, mẹ tôi, căn nhà tranh ở Hồ Tây và người văn sĩ tài hoa Nguyễn Tuân một lần đến thăm, một thời nào đó đã xa, đã xa xôi lắm như chỉ có trong giấc mơ. Vợ tôi, sau cả ngày lục lọi, cuối cùng cũng tìm ra cái ấm trà và bộ đĩa chén để trong một cái túi nhựa giấu sâu trong giá sách, mà thời buổi này chẳng còn mấy ai có thì giờ để đọc một cuốn sách in. Tôi nhìn thấy bộ đồ trà, lòng ngẩn ngơ như gặp lại một người bạn cố tri nhớ mà không muốn gặp. Đã từ lâu tôi đã quên đi những thú uống trà, nghe nhạc, đọc sách. Cái giấc mộng văn chương một đời người tôi tơ tưởng, giờ đây thật lòng tôi chỉ muốn quên đi. Tôi chỉ muốn giữ gìn sức khoẻ để sống nốt cái đời của một người già cả, bệnh hoạn, không còn muốn làm phiền đến cả chính mình. Nhưng cái đĩa bàn đựng chén trà sau những lần di chuyển hay vì những đường hàn gắn đã quá lâu, lại phơi bầy những mảnh vụn ngổn ngang. Trong khi vợ tôi loay hoay vá lại những mảnh vỡ, tôi tò mò ngắm nhìn những họa hình trong lòng đĩa và trên thành chén, mấy cái chữ Tầu ở trôn đĩa và chén có vẻ giống nhau, và bảy chữ Hán in trên một cái chén quân lạc điệu chắc hẳn là một câu thơ, tôi chợt tự hỏi không biết cái xuất xứ của các vật nhỏ nhắn, xinh đẹp và cổ xưa này. Nhân có một người bạn trẻ thông thạo chữ Hán, đã từng cho tôi coi những bài thơ làm bằng tiếng Hán của anh, tôi vội vã gói cái ấm đất và bộ chén trà đến nhờ anh đọc dùm. Anh cho tôi biết đôi điều về cái chất đất sét đặc biệt có trộn cát ở huyện Nghi Hưng vùng Giang Tô, nơi đã sản xuất những ấm trà Thế Đức, Lưu Bội, Mạnh Thần. Hai chữ Nội Phủ ở trôn đĩa và chén là sản phẩm đồ sứ men lam Huế (bleus de Hué) đặc thù của thời kỳ mạt Lê/Trịnh Sâm qua nhà Tây Sơn và kéo dài đến mấy triều đại đầu tiên của nhà Nguyễn Gia Long. Tôi độ chừng những cổ vật này cũng đã có số tuổi trên dưới hai thế kỷ, đã được nâng niu nhẹ nhàng bởi những ngón tay khéo léo của dòng họ Nguyễn Tuân, và một ngày nào đã xa, cụ tú Hải Văn Nguyễn An Lan đã ngồi uống trà, khề khà kể những chuyện vang bóng một thời cho người con cả tài hoa, người con đã mang trong người dòng máu giang hồ như một chứng tích của gia đình, Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân, một người cầu kỳ và khinh bạc, Thạch Lam, một người trầm lặng và khó tính, tôi vẫn không hiểu hoàn cảnh nào đã đưa hai người văn sĩ tài hoa của hai dòng bút pháp khác biệt đến với nhau. Giữa tháng sáu năm 1940, Thạch Lam viết bài phê bình cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân trên báo Ngày Nay. Nhà thơ Đinh Hùng, một người bạn trẻ thường xuyên có mặt ở nhà Thạch Lam, chỉ gặp Nguyễn Tuân ở đó có một lần, ắt hẳn cái giao tình giữa hai người không phải chỉ đếm bằng những lần gặp gỡ. Mười lăm năm sau cái chết của Thạch Lam, tháng bẩy năm 1957, giữa cái thời văn nghệ miền Bắc đang sôi động về vụ Nhân Văn Giai Phẩm, cái thời mà những tác phẩm văn chương của nhóm Tự Lực Văn Đoàn như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam bị coi như cấm kỵ và phản động (một người bạn tôi gặp ở Hà Nội năm 1994, hiệu trưởng một trường nữ trung học nổi tiếng, đã kể cho tôi nghe khi còn ở đoàn thanh niên Tiền Phong, chỉ vì chép tay truyện Dưới Bóng Hoàng Lan của Thạch Lam mà bị kiểm thảo nặng nề), Nguyễn Tuân đã vì lý do nào viết bài ca tụng văn chương Thạch Lam. Rồi ba mốt năm sau, năm 1973, Nguyễn Tuân đề tặng Thạch Lam bài tùy bút Giò Lụa của mình và một tháng sau viết về Cốm, phải chăng sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, ông chợt động lòng nhớ đến người bạn xưa của Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường.
Cái ấm đất và bộ chén trà của Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam, cuối cùng, như hai người tri kỷ cùng im lặng thưởng thức cái hương vị của một ấm trà ngon, chính là chứng cớ lặng lẽ cho một tình bạn âm thầm và sâu xa, mãi mãi giữ kín ở trong lòng.
10:50 tối ngày sáu tháng mười năm 2013
Nguyễn Tường Giang
(Bài đăng ở Giai Phẩm Xuân Người Việt, Giáp Ngọ 2014)
Thạch Lam, hình bóng không nguôi
Chân dung Thạch Lam (Đinh Cường 2004)
sơn dầu trên carton 40 x 40 in
Tôi biết nói gì về một người cha, khi ông mất, tôi mới chưa đầy ba ngày tuổi. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ông, được nắm tay ông, hay như những người con may mắn khác, được gọi ông bằng cha và được nghe ông gọi tên tôi, nhưng tôi luôn luôn hình dung và bị ám ảnh bởi cái chết của ông, cái chết của một nhà văn nghèo, bệnh hoạn và còn quá trẻ. Nếu tôi có được cái tài của một họa sĩ, như Picasso chẳng hạn, vào thời kỳ blue, tôi sẽ vẽ lại cái khung cảnh ấy. Đó là một người đàn ông gầy và cao nằm trên một cái giường tre nhỏ, trên người đắp một cái chăn mỏng, ngực lép xẹp nhưng khuôn mặt có dáng dấp Tây phương, gò má hóp, mũi cao và nhất là hai con mắt sâu thẳm, đầy bóng tối, khuất sâu dưới hàng lông mày rậm, mái tóc rất đen, mềm và dầy, vài sợi tóc lõa xõa trên vầng trán cao. Tất cả đều mờ ảo trong nền mầu xanh đậm nhạt, như sáng lên trong bóng tối. Bên cạnh giường là hình ảnh mờ nhạt của hai người đàn bà tóc quấn khăn nhung, áo dài the đen, một người lớn tuổi, cằm hơi vuông, mắt sâu và lông mày rậm, một người trẻ hơn nhưng khuôn mặt phảng phất khuôn mặt người mẹ, hai người ngồi phía cuối chân giường, hơi nghiêng về phía trước. Một người đàn bà nhỏ nhắn, tóc buông đen dài trên áo cánh trắng, khuôn mặt nhỏ và thon, đôi mắt buồn rầu như muốn khóc, nắm tay người đàn ông, những ngón tay dài, thon nhỏ và xanh xao. Phía trên giường nằm mở ra một cửa sổ, có đôi chút ánh nắng chiếu vào, mầu trắng nhợt, xa hơn là bóng những cành liễu nhỏ, rũ xuống, buông lơi mờ nhạt. Tựa đề của bức tranh: “Cái chết cùa một nhà văn trẻ”. Tôi không thể không nghĩ tới số phận của những nhà văn Việt nam thời đó, và có thể cho tới bây giờ. Những người làm văn chương và nghệ thuật, những nhà báo, đã hy sinh đời mình cho lý tưởng và cái đẹp, hình như vẫn chỉ là những người có một đời sống vật chất rất khiêm nhường trong xã hội, phải chăng chỉ vì cái lạc thú được theo đuổi những giấc mơ của chính mình. Còn những người thân cận, những vợ, con của những nghệ sĩ tài danh đó, hoặc là bươn chải cho giấc mơ của chồng, cha hoặc âm thầm hy sinh và chịu đựng những cơ cực của đời thường. Tôi nghĩ, đó chính là hình ảnh và thực tế của đời sống Thạch Lam, cha tôi. Đó là lời phát biểu bộc phát khi tôi, như một người con phải nói đôi điều về Thạch Lam trong buổi hội thảo Tự Lực Văn Đoàn và báo Phong Hóa/ Ngày Nay: “Tôi không biết là tôi thương ông hay không thương ông”. Thạch Lam, như một người cha đã thường xuyên vắng mặt, nhưng tên tuổi và những tác phẩm để lại, cái gia tài tinh thần ít ỏi và ngắn ngủi của ông, lại ảnh hưởng đến cuộc đời tôi biết bao, trên bẩy mươi năm ròng rã, để tôi đã là tôi ngày hôm nay, chắc chắn không có thể xẩy ra khác được, như con đường đã được chọn lựa, từ khi tôi ba ngày tuổi và từ khi ông từ bỏ cuộc đời này, vĩnh viễn.
Tôi bắt đầu biết đến văn chương Thạch Lam từ một buổi học Việt văn khi tôi ở lớp đệ thất (lớp 6 bây giờ) trường trung học Hồ Ngọc Cẩn khi mới di cư vào Nam. Tôi còn nhớ khá rõ thầy giáo dậy Việt văn tên Hải, một hôm gọi tôi đứng lên đọc một đoạn văn trong chương trình, một đoạn văn trích dẫn trong một truyện ngắn nào đó của Thạch Lam. Tôi đứng lên, đọc thông suốt, không ngập ngừng, như đoạn văn đó đã ở trong trí nhớ tôi từ lâu, lâu lắm. Đến khi tôi ngừng đọc, thầy giáo Hải có vẻ cảm động, khen tôi đọc bài lưu loát và tình cảm. Tôi ngồi xuống, mắt đỏ hoe. Tôi đã biết Thạch Lam là cha tôi do những lần mẹ tôi dẫn đến nhà bác Tam (Nhất Linh) ở Hàng Bè -Hà Nội, hay những lần bà nội cho người gửi tiền đến cho mẹ tôi, nói là tiền in sách của cha tôi. Trong suốt thời niên thiếu ở Hà Nội, theo bậc tiểu học ở trường Hàng Than (Nguyễn Công Trứ), những đoạn văn tôi đọc chỉ là những bài viết trong mấy tập Tân Quốc Văn hoặc Quốc Văn Giáo Khoa Thư, tôi chưa bao giờ nhìn thấy và đọc một cuốn truyện của Thạch Lam. Có lẽ tôi còn quá nhỏ chưa đủ hiểu biết để đọc tiểu thuyết, hoặc là vì tôi chỉ ham mê đọc truyện kiếm hiệp hay truyện Tầu, đôi khi đọc những truyện trẻ con như Dế Mèn Phiêu Lưu Ký hay truyện dịch ngoại quốc Tâm Hồn Cao Thượng, Vô Gia Đình… Chỉ có một khoảng thời gian ngắn trước khi di cư vào Nam tôi mới bắt đầu tiếp xúc với văn chương Tự Lực Văn Đoàn, chủ yếu là Khái Hưng, Thế Lữ, Nhất Linh và Trần Tiêu. Tuyệt nhiên không có Hoàng Đạo và Thạch Lam. Thầy giáo Hải sau đó, có lẽ biết tôi là con của Thạch Lam, nên rất ân cần và nâng đỡ tôi trong giờ Việt văn. Tôi rất cảm động trong tình thầy trò thì ít, nhưng có lẽ tôi đã nhìn thấy cha tôi qua sự yêu mến văn chương Thạch Lam của thầy. Tôi bắt đầu có những ý thích về văn chương và nuôi mộng trở thành một nhà văn, như cha tôi Thạch Lam. Nhưng viết văn không phải cứ muốn là đuợc, và ở tuổi tôi, có biết bao nhiêu điều vui thú khác quyến rũ hơn, cộng với tính lười biếng và ham chơi, tôi không bao giờ làm gì hơn là những bài luận văn để lấy điểm trong lớp. Về sau này, tôi nhớ có hai lần quyết tâm theo đuổi nghiệp văn chương. Lần đầu tiên vào khoảng năm 1957-58, khi bác Tam bỏ Đà lạt về Sài gòn làm báo Văn Hóa Ngày Nay, tôi có cặm cụi viết một vài truyện ngắn đưa cho bác Tam đọc, một tuần sau đó, nhân một buổi đến thăm bác, bác ký tặng tôi một số Văn Hóa Ngày Nay và nói: cháu còn trẻ và viết văn giống Thạch Lam quá, cháu nên viết những gì riêng biệt cho cháu thì tốt hơn. Bác Tam cũng khuyên tôi nên đọc thêm nhiều sách khác, nhưng ông khuyên tôi không nên đọc cuốn Bướm Trắng của ông vì tôi còn quá nhỏ. Tôi đã không có cái can đảm để cong lưng viết thêm vì không thấy hứng thú, và bay lượn với những đường banh trên sân cỏ đã quyến rũ tôi hơn. Gần mười bẩy năm sau, trong khi đang hành nghề y khoa, tôi lại một lần nữa cảm thấy sự thúc đẩy từ sâu thẳm trong tâm hồn, tôi bỏ hết thì giờ và năng lực để hoạt động trong môi trường sách báo, viết văn và làm thơ, nhưng sự kết thúc bi thảm của chiến tranh (một điều tôi rất mơ ước) đã đẩy tôi tới một môi trường sống khác, tôi lại không có cái can đảm như một nhân vật trong truyện Ngày Mới của Thạch Lam, tìm thấy hạnh phúc trong một đời sống thanh đạm và giản dị, nói chung là một cuộc sống nghèo, để theo đuổi giấc mộng văn chương..
Vào khoảng thời gian những năm đầu di cư vào Nam, tôi đang ở tuổi thiếu niên, tuổi mới lớn và có nhiều nhu cầu vật chất. Mẹ tôi lúc đó là một công nhân lao động ở nha Bưu Điện, lương bổng ít ỏi chỉ đủ ăn hai bữa cơm rất thanh đạm hàng ngày. Lúc đó, cái gia sản vật chất nhỏ bé cha tôi để lại, dù chỉ là một số lượng sách khiêm nhường, cũng đã giúp anh tôi và tôi có được áo quần tươm tất và phương tiện di chuyển như các bạn cùng lứa thuộc gia đình trung lưu. Đó là lúc bác Tam (Nhất Linh) thành lập nhà xuất bản Phượng Giang và in lại một số truyện ngắn của Thạch Lam, và cũng là thời gian tôi làm quen nhiều với những tác phẩm của cha tôi, vì kèm theo tiền bản quyền, nhiều khi do chính tay bác Tam đưa tới, chúng tôi cũng nhận được một số sách để giữ hoặc tặng bạn bè. Không thể nói là tôi sống trong cái bóng của cha tôi, nhưng quả thật những truyện ngắn ông viết đã ảnh hưởng nhiều trong cuộc đời tôi. Không phải là thường xuyên, nhưng những gì ông viết ra, bất chợt nhắc nhở tôi trong những tình huống đặc biệt, từ đó tôi tập sống làm một người lương thiện, biết thương yêu những người nghèo khó, những hoàn cảnh khốn cùng. Tôi cố gắng trong cư xử hòa thuận, tôn trọng nhân phẩm mọi người và hiểu rằng đôi khi một hành động nhỏ không suy nghĩ có thể gây ra những tai hại lớn lao và khốc liệt cho người khác. Tôi cũng học tập và tin tưởng qua những điều ông viết, là một đời sống thanh đạm và giản dị là căn bản của hạnh phúc, rằng tiền bạc chỉ là những ảo tưởng phù du. Nhưng than ôi, đối với đời sống và quan niệm thực tế thời tôi lớn lên, và nhất là sau này khi phải lưu lạc nơi đất Mỹ, những suy nghĩ và hành xử của tôi trong xã hội chỉ làm tôi là một người đứng bên lề. Dĩ nhiên, để đối phó với những khó khăn của cuộc sống, tôi phải hòa mình sống như mọi người. Tôi cũng đã có nhiều lần nghĩ những điều không tốt đẹp, có những hành động và cư xử có thể làm tổn thương người khác, cũng tranh đua với đời. Mỗi lần như thế, nghĩ đến danh tiếng của cha tôi, nhớ đến những bầy tỏ về tính nhân bản trong các truyện ngắn của ông, đêm nằm nhìn lên trần nhà, tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ và khổ sở.
Đã có rất nhiều lần trong đời, tôi rất bất mãn và ngượng nghịu trong xã giao đời thường, khi được giới thiệu: “Đây là anh/ông Giang, con út nhà văn Thạch Lam”. Lời giới thiệu đó đã làm tôi rất khó chịu và rất khó đối xử, vì tôi bị chụp ngay vào đầu cái vòng kim cang của cha tôi, tôi không còn là tôi nữa, những ý tưởng của tôi đã bị điều kiện hóa. Tôi không biết phải ứng xử ra sao để phù hợp với “con út của nhà văn Thạch Lam”. Đôi khi, những người bạn văn nghệ bàn về cái hay cái đẹp của văn chương Thạch Lam, mặc dù tôi rất thích văn chương ông, nhưng mặc cảm về liên hệ cha con đã khiến tôi, hoặc im lặng, hoặc lảng tránh. Tôi, đôi khi chỉ muốn là con của một người bình thường nào đó, không có tiếng tăm và được yêu mến như Thạch Lam. Bây giờ, đã hơn bẩy mươi tuổi đầu, khi đọc lại những tác phẩm của Thạch Lam, tôi thưởng thức với cảm xúc khách quan của một độc giả, tôi rất hãnh diện khi có người nhắc tới tôi là con của nhà văn Thạch Lam, trong Tự Lực Văn Đoàn, một nhà văn tôi cũng rất yêu quý vì văn tài của ông. Thực tế, dù chấp nhận hay từ chối, tôi đã là con của Thạch Lam. Cũng chẳng còn bao lâu nữa, tôi sẽ có dịp gặp lại mẹ tôi và Thạch Lam, lúc đó có thể tôi sẽ được nắm tay ông và nhìn vào đôi mắt sâu thẳm của ông để gọi hai tiếng: Cha ơi. Hai tiếng ngắn ngủi đã bao nhiêu năm tôi vẫn hằng mong ước.
Nguyễn Tường Giang
08/21/2013