Cao Mỵ Nhân – Người “Đi Xé Thiên Đàng”
Phương Hoa
(Bài đăng trên Việt Báo 11/13/2020)
https://vietbao.com/a305738/cao-my-nhan-nguoi-di-xe-thien-dang-
Cao Mỵ Nhân, nhà thơ gốc lính, hình chụp 1975
Trong bài trước, khi viết cảm nhận cho thi tập “Xướng Họa Cao Mỵ Nhân & Trịnh Cơ,” vì thời gian có hạn, nên tôi chưa kể hết về Cao Mỵ Nhân (CMN) nhà thơ tiền bối mà tôi hằng kính trọng và khâm phục. Sau khi gửi bài đăng, đọc lại tôi cứ cảm thấy còn thiêu thiếu chút gì. Nhưng rồi dịp may đã đến. Chỉ sau 6 tháng phát hành, thi tập “Xướng Họa Cao Mỵ Nhân & Trịnh Cơ” đã được độc giả khắp nơi đón nhận, và hiện đang được tái bản vào tháng 11, 2020 này. Giữa thời buổi công nghệ thông tin ngày càng phát triển, ngày càng có ít người thích cầm một quyển sách in “bằng xương bằng thịt…giấy” để đọc, thì chuyện tái bản tập thơ trong một thời gian ngắn-rất-ngắn như thế này có thể nói là một “kỳ tích” của hai nhà thơ Cao Mỵ Nhân & Trịnh Cơ. Nhờ vậy tôi lại được dịp viết tiếp để bổ sung thêm cho những gì còn thiếu của lần trước.
Lần đó, vì là tập thơ chung của hai tác giả, nên tôi chưa có dịp giới thiệu kỹ riêng về một bài thơ của thi sĩ Cao Mỵ Nhân, bài thơ tôi thích nhất trong những bài thơ của chị trong toàn tuyển tập. Đó là bài “Mảnh Trăng Thơ.”
Mảnh Trăng Thơ
Từ lâu, để mực đọng nghiên vàng
Bút cũng âm thầm ngại điểm trang
Một nét ngọc phai thành lạc điệu
Bao lời châu nhạt lỡ tan hàng
Dẫu xuân còn đứng chờ hoa nở
Hay hạ đang ngồi đợi nắng sang
Thì cứ cùng thơ vui đối bóng
Theo trăng đi xé nửa thiên đàng.
Cao Mỵ Nhân (Thơ Xướng Họa – Trịnh Cơ & Cao Mỵ Nhân, Tr.72)
Nhà thơ Cao Mỵ Nhân – (ảnh mới nhất)
Ở đây tôi không dám lạm bàn về luật lệ của bài Đường thi này, vì sẽ bị thừa, vì tất nhiên là luật lệ bài thơ rất chỉnh đốn rồi. Tôi chỉ nói đến cái hồn và chữ nghĩa của bài thơ. Cái hồn thơ man mác quyện theo từng dòng thơ chứa đựng từ ngữ mượt mà như lụa, óng ánh như tơ, long lanh như sương mai đã khiến cho tôi như bị… hớp hồn khi đọc. Kính mời quý vị hãy cùng thưởng thức hai câu mở đầu :
“Từ lâu, để mực đọng nghiên vàng
Bút cũng âm thầm ngại điểm trang”
Cái hớp hồn, cái tuyệt mỹ ở đây, là nhà thơ đã nhân cách hóa, cho ẩn dụ một cách tài tình, bút là mỹ nhân, vì âu sầu, vì cô đơn, mà không chịu điểm trang để cho hoa dung tàn tạ. Và người ta có thể… đổ thừa ngay, thủ phạm đã khiến cho nàng “ngại điểm trang” là cái kẻ đã nhẫn tâm bỏ mực đọng bơ vơ trong nghiên vàng.
Khi tôi hỏi ý tưởng từ đâu mà chị hình thành hai câu mở của bài thơ đặc sắc này, chị CMN cười cười, “Chị lấy ý từ câu thơ của một người bạn (ngập ngừng)…chí thiết.” Là một “chàng guy” sao? Tôi hỏi đùa. Chị cười lớn hơn, nhưng không xác nhận cũng không phủ nhận. Quả là một sự ví von tuyệt hảo trong hai câu thơ mở đầu. Ý lời thanh tao, thâm thúy, làm cho người đọc cảm nhận ngay, nghe ra ngay, đâu đây tiếng than xé lòng của kẻ đợi chờ trong nỗi cô đơn.
Đến hai vế đối của hai câu thực (3-4) cũng quá đẹp. Đối rất chỉnh, điều mà nhóm xướng họa chúng tôi thường nói vui là “đối sát rạt,” nhưng cái đẹp ở đây là cách dùng chữ rất ư khéo léo, nếu không nói là tinh xảo, “Một nét ngọc phai” đã hòa hiệp với “Bao lời châu nhạt” tạo cho người đọc cái cảm giác rưng rưng, tiếc ngọc thương hương khi tưởng tượng ra cái cảnh nàng thơ đang héo úa, nhỏ lệ đợi chờ hình bóng tha nhân.
“Một nét ngọc phai thành lạc điệu
Bao lời châu nhạt lỡ tan hàng”
Độc đáo hơn, ở hai câu luận (5-6) nữ sĩ đã dùng phép đối “Lưu Thủy” – ý câu sau tiếp nối cùng câu trước như nước chảy- để bày tỏ tấm lòng “kiên gan cùng tuế nguyệt” của sự đợi chờ, chờ đợi từ lúc xuân còn đứng chờ hoa nở mãi tới khi hạ ngồi đợi nắng sang, nghĩa là chờ đợi trường kỳ.
“Dẫu xuân còn đứng chờ hoa nở
Hay hạ đang ngồi đợi nắng sang”
Viết tới đây, tôi phải…nín thở một chút, vì sắp đọc tới hai câu kết. Sự độc đáo của hai câu thơ
kết đã khiến cho tôi “mê mẩn tâm thần” khi lần đầu tiên được đọc, và hiện tại chúng vẫn còn …bảng lảng trong tôi. Xin trích lại vài câu trong bài viết trước, “Hai câu kết này đã làm tăng thêm phần đặc sắc cho bài thơ. Bơ vơ thì mặc bơ vơ, tác giả tự nhủ, ta hãy cứ vui, cứ đối bóng với thơ, để rồi còn tìm cách bay theo trăng đi xé nửa cái thiên đàng đã mất. Tự cổ chí kim, chỉ mới có Thi Tiên Lý Bạch đời Đường bên Tàu nhảy xuống sông để vớt trăng lên, giờ đây lại có thi nữ Việt là Cao Mỵ Nhân đòi theo trăng đi xé nửa thiên đàng, lại càng là chuyện “không tưởng” hơn ngài Lý Bạch nữa. Những suy nghĩ lý thú và ngoạn mục như vậy chỉ có những nhà thơ “siêu việt” mới tính làm, hoặc nghĩ ra mà thôi.”(Trích trong bài “Thi tập Thơ Xướng Họa Cao Mỵ Nhân &Trịnh Cơ.”VB). Hai câu kết này đã khiến người đọc phải ngẩn ngơ:
“Thì cứ cùng thơ vui đối bóng
Theo trăng đi xé nửa thiên đàng.”
Do cảm xúc trào dâng không kềm nén được, tôi ráng ngồi “nặn óc bứt tai” mày mò họa lại bài “Mảnh Trăng Thơ.” Dù vẫn biết “Gà đâu thể nào sánh với phụng,” hay “Cóc làm sao dám đọ thiên nga,” nhưng nếu không họa bài thơ này thì có lẽ tôi sẽ… ngủ không yên. Và đã họa rồi thì cũng xin mạo muội đưa ra đây trình làng, kính mong nữ thi sĩ CMN và quý vị thi sĩ trưởng bối lượng thứ cho sự “bạo phổi” và “múa rìu qua mắt thợ” này, nếu bài họa có chỗ nào không ổn. Kính xin đa tạ.
Tìm Nẻo Địa Đàng
(Kính họa nguyên vận bài Mảnh Trăng Thơ)
Mỹ tửu hương bay nhạt chén vàng
Bên lầu dã dượi nét đài trang
Bờ vai gió tạt sương chườm tóc
Ánh mắt sầu vương lệ đẫm hàng
Bởi khóm phượng tàn xua hạ trưởng
Nên vườn cúc rũ đuổi thu sang
Thương manh hồn lạc đang tìm lối
Thơ cõng trăng soi nẻo địa đàng
Phương Hoa – Tháng 11/2020
Đâu phải chỉ có mình người viết chủ quan khen ngợi thơ chị CMN và anh Trịnh Cơ. Khi Thi tập “THƠ XƯỚNG HỌA – CAO MỴ NHÂN & TRỊNH CƠ” xuất bản lần đầu, các diễn đàn thơ văn bằng hữu chúng tôi như nhộn nhịp hẳn lên. Bài cảm nhận lần trước tôi viết sau khi đăng trên Việt Báo, rồi chia sẻ link và bài lên các diễn đàn Đường Thi xướng họa, Minh Châu Trời Đông, FaceBook, Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại VĐB Hoa Kỳ, và bạn bè thân hữu, thì tôi nhận được rất nhiều phản hồi tích cực. Sau khi mua và đọc Thi Tập nhiều người đã làm thơ, viết nhận xét, và những đoản văn ngợi khen ủng hộ hai tác giả, cùng nhiều lời chúc mừng gửi tới nhờ tôi chuyển đến hai thi nhân, nhiều đến nỗi tôi chuyển không kịp.
Thực ra thì Cao Mỵ Nhân, vị nữ sĩ gốc quân nhân của quân đội VNCH, không phải chỉ có tài làm thơ. Văn tài của chị đã lộ rõ từ rất sớm, khi chị còn là “cô bé Bắc Kỳ” sống cùng gia đình ở Hải Phòng. Có lần, tôi hỏi tác phẩm đầu tiên của chị là gì, chị bật cười vẻ đầy thích thú:
Trời đất! Sao em lại hỏi cái câu y chang như câu hỏi của Thiếu Tướng Hoàng Văn Lạc ngày xưa quá vậy! Đó là lần đầu tiên chị lên trình diện, ông tướng đã hỏi chị bài viết đầu tiên là gì và bài cuối cùng là gì.
Tôi cũng cười vui vì tôi có đọc biết về tướng Hoàng Văn Lạc là vị tướng nổi tiếng, là Tư Lệnh phó lãnh thổ Quân đoàn I, Quân khu 1, VNCH xưa. Chị CMN kể, khi chị trả lời bài viết đầu tiên là bài “Sự Tích Trời Cao,” còn bài cuối thì chị không thể trả lời, ông thiếu tướng đã trợn mắt nhìn, tưởng chị dám “giỡn mặt” với ông. Và khi chị giải thích, vì vẫn đang còn mãi tiếp tục viết nên không biết bài cuối cùng là bài nào để trả lời ông, thì ông cười xòa.
Mà đúng thật vậy. Chị Cao Mỵ nhân làm sao trả lời ông tướng bài viết cuối là bài nào, vì hiện tại sau hơn năm mươi năm kể từ ngày ông tướng hỏi, chị vẫn còn tiếp tục viết văn và làm thơ, hồn thơ vẫn còn lai láng. Chị có mặt trong vườn thơ xướng họa hầu như mỗi ngày, đăng thơ lên các trang web liền tay, và xuất bản sách liên tục. Câu hỏi vui của ông tướng, và câu trả lời dí dỏm của chị đã làm tôi thích thú, và vui suốt buổi vì cuộc trò chuyện tiếp theo sau đó với chị.
Ông cụ thân sinh chị CMN ngày xưa là kỹ sư công chánh, cụ làm giám đốc sở điện nước Chapa, nay là Sapa, “điểm nóng” du lịch của Việt Nam, nên chị được sinh ra ở Chapa. Có lẽ nhờ vùng đất “địa linh” phong cảnh đẹp xinh, non nước hữu tình nên đã tạo ra một “nhân kiệt” là người nữ anh hùng với hồn thơ lai láng. Tuổi thiếu niên, chị học tại trường Tiểu Học Lệ Hải ở thành phố Hải Phòng. 13 tuổi, chị CMN đã là một cây bút cổ tích của Hải Phòng. Như người viết vẫn thường nhắc đến trong các bài khác, theo những nhà nghiên cứu giáo dục nhi đồng, sự rèn luyện dạy dỗ các em trong tuổi ấu thơ của phụ huynh rất là quan trọng. Nếu người lớn thường xuyên kể chuyện và đọc sách cho bé nghe, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến vốn liếng chữ nghĩa và sở thích viết văn của các em về sau khi lớn lên. Điều này xem ra rất đúng trong trường hợp nữ sĩ CMN. Chị kể, người chị cả của chị là Cao Thy Nhân rất có tài kể chuyện đời xưa. Chị ấy thường kể mỗi đêm cho các em nghe những chuyện cổ tích do chính chị ấy nghĩ ra. Nên nhờ đó cái thú yêu thích văn chương, yêu truyện đã hình thành trong chị CMN ngay từ nhỏ.
Tôi càng nghe càng thán phục. Bài viết đầu tiên “Sự Tích Trời Cao” của chị CMN được báo Liên Hiệp tại Hà Nội đăng ngày 27 tháng 3 năm 1953. Một cô bé mới học Đệ Thất (lớp 6 bây giờ), mà đã biết viết tay câu chuyện cổ tích do chính mình nghĩ ra, rồi ghi địa chỉ tòa soạn đọc được trong tờ tạp chí và một mình đến bưu điện gửi bài đi. Sau đó thì nhiều bài viết của chị xuất hiện trên báo Tia Sáng, và ông chủ bút tờ báo Giang Sơn Hà Nội là Mộc Đình Nhân liên lạc mời chị tham gia coi mục Trang Nhi Đồng cho tờ báo. Mỗi thứ Tư hàng tuần chị đều có bài đăng ở mục này. Đây quả là một kỷ lục thành công trong văn nghiệp rất hiếm hoi cho giới cầm bút… “nhí” mà từ trước tới giờ tôi mới được nghe.
Vậy thì, chị bắt đầu “khởi nghiệp” viết lách là viết văn xuôi, tôi thích thú hỏi. – nhưng vì nguyên do đặc biệt nào mà từ viết văn chị chuyển sang làm thơ và trở thành một nhà thơ độc đáo như bây giờ?
Chị bắt đầu viết văn là khi còn ở ngoài Hà Nội. Sau này di cư vô Nam, chị đọc tờ báo Phụ Nữ Diễn Đàn và yêu thích những bài thơ hay trong đó, thế là chị bắt đầu làm thơ. Chị CMN nhớ lại. – Tập thơ tình đầu tiên của chị, “Thơ Mỵ” do nhà văn Thế Phong chủ trương, Nhà Xuất Bản và Phát Hành Đại Nam Văn Hiến, Sài Gòn, in năm 1961. Rồi chị cười: – Mà thời đó làm gì có máy in “ngon lành” như bây giờ, nên họ “in” bằng cách quay roneo, vậy là tập “Thơ Mỵ” của chị được xuất bản theo cách đó. Và tuy chữ nghĩa quay roneo…mờ mờ ảo ảo như vậy, mà nó cũng được đón nhận thật nhiệt tình, với 200 cuốn, không biếu, tặng, chi cả, và đã bán hết sạch trong hai tuần lễ đầu. Sau 30/04/1975, chị tình cờ gặp một tập “Thơ Mỵ” của chị bán “son” ở lề đường Sài Gòn, trên trang đầu có dòng chữ viết lớn bằng mực tím: “Dùng làm sính lễ” và dưới ký tên thật rõ ràng: THÀNH TÔN.
Chao ơi! Tôi thích thú kêu lên. Tuyệt quá! Người tân lang này quả là một chàng trai lãng mạn! Dùng một tập thơ tình để làm sính lễ! Dễ thương chi lạ. Đúng là chuyện rất hiếm khi nghe, nhưng có thể đoán được thơ của chị Mỵ hay và lãng mạn tới cỡ nào!